Trường Tiểu Học Trong Hệ Thống Giáo Dục Quốc Dân

các công trình đưa ra lý luận chung về quản lý CSVC, có các nghiên cứu cụ thể về thực trạng, về những hạn chế trong quản lý CSVC trường học ở nước ta và giải pháp khắc phục. Các tác giả Ngô Văn Dưỡng, Huỳnh Văn Kỳ [14] có bài viết phân tích về tình hình đầu tư, sử dụng thiết bị các phòng thí nghiệm, thực hành của các trường ĐH ở Đà Nẵng. Các tác giả Nguyễn Vĩnh Hà [22], Nguyễn Minh Hiệp [23], Tạ Bá Hưng, Cao Minh Kiểm, Nguyễn Tiến Đức, Bùi Văn Phúc [19], Phan Thị Hà Thanh, Đoàn Phan Tân [49]... đã đề xuất các giải pháp nghiệp vụ trong quản lý thư viện, mảng công tác quan trọng thuộc lĩnh vực quản lý CSVC.

Vấn đề chất lượng lĩnh vực CSVC và thiết bị cũng đã được nói đến trong một số công trình nghiên cứu như một bộ phận của hệ thống tiêu chí đánh giá quá trình đào tạo. Trong cuốn “Dựa vào các chỉ số thực hiện để đưa ra các quyết định chiến lược” (Using Performance Indicators to Guide Strategic Decision Making - 1993), các học giả Mỹ Bottill và Borden [dẫn theo 12] đã liệt kê 21 lĩnh vực thực hiện, trong đó có “Phương tiện CSVC” và “Dịch vụ”. Đây cũng là 2 tiêu chí (21. Hệ thống hạ tầng cơ sở; 22. Hệ thống thư viện) trong tổng số 26 tiêu chí thuộc Bộ tiêu chí kiểm định chất lượng được đề xuất trong công trình của tác giả Nguyễn Đức Chính [12]. Tại hội thảo về đảm bảo chất lượng trường ĐH Việt Nam tổ chức ở Đà Nẵng tháng 3/2009, các tác giả Phạm Xuân Thanh, Trần Thị Tú Anh, trên cơ sở kinh nghiệm thế giới, đã đề xuất xem các nội dung “CSVC và điều kiện học tập”, “tư liệu học tập cung cấp cho môn học” là các tiêu chí thành phần để đánh giá chất lượng giảng dạy khóa học và chất lượng giảng dạy môn học. Trình bày kết quả cuộc khảo sát qui mô lớn năm 2008 về thực trạng đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng đào tạo trong các trường ĐH nước ta, nhóm nghiên cứu (Đào Thái Lai, Vũ Trọng Rỹ, Lê Đông Phương, Ngô Doãn Đãi) đã khẳng định “CSVC hạn chế” là yếu tố hàng đầu cản trở việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay [dẫn theo 45],…

Nghị quyết 40/2000/QH10 của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đã nêu rõ: “Đổi mới nội dung chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy và học phải được thực hiện đồng bộ với nâng cấp và đổi mới trang thiết bị dạy học”.

Đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu về vấn đề trực quan và các TBDH như các tác giả V.G.Bêlinxky (1811-1848), Vũ Trọng Rỹ, Thái Duy Tuyên, Tô Xuân Giáp,... Những công trình của các tác giả nói trên đã xây dựng được một hệ thống lí luận về vai trò, tác dụng của thiết bị dạy học cùng một số yêu cầu và nguyên tắc sử dụng nó trong quá trình dạy học. Ngoài ra, còn có: “Biện pháp quản lý cơ sở vật chất

thiết bị giáo dục ở trường tiểu học Lê Hồng Phong Thành phố Đông Hà tỉnh Quảng Trị” năm 2012 của tác giả Võ Ngoạn; “Biện pháp quản lý thư viện, thiết bị dạy học của Hiệu trưởng trường tiểu học Quyết Thắng, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh” năm 2015 của tác giả Bùi Thị Hải Thu; “Biện pháp quản lý sử dụng thiết bị dạy học của Hiệu trưởng các trường PTDTBT tiểu học huyện Nậm Pồ tỉnh Điện Biên” năm 2016 của tác giả Vũ Ngọc Can. Các công trình nghiên cứu trên đều chỉ ra rằng: Đánh giá được thực trạng thiết bị dạy học, thực trạng quản lý trang bị, bảo quản và sử dụng để từ đó đề ra biện pháp chiến lược nhằm phát huy hiệu quả của thiết bị dạy học là việc làm hết sức cần thiết, cấp bách đối với cán bộ quản lý các nhà trường.

Ở nước ta, đã có một số nhà khoa học, nhà quản lý giáo dục nghiên cứu lĩnh vực này, tuy nhiên vẫn còn rất ít nghiên cứu tập trung vào vấn đề quản lý cơ sở vật chất và thiết bị dạy học. Do đó, cần thiết phải xem xét việc quản lý cơ sở vật chất từ góc độ khoa học quản lý giáo dục để làm rõ và cách cải tiến quản lý cơ sở vật chất và thiết bị giáo dục nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của giáo dục. Tuy nhiên, ở mỗi địa phương đều có điều kiện địa lý, đặc điểm kinh tế xã hội khác nhau, nên hoạt động quản lý cơ sở vật chất và thiết bị giáo dục và việc vận dụng những phương pháp quản lý cũng mang những sắc thái riêng, đặc trưng cho địa phương đó. Lĩnh vực nghiên cứu quản lý cơ sở vật chất và thiết bị theo tiêu chuẩn trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia tại huyện Nậm Pồ tỉnh Điện Biên là rất cần thiết. Đây là lí do để tôi lựa chọn nghiên cứu vấn đề này.

1.2. Trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia

1.2.1. Trường tiểu học trong hệ thống giáo dục quốc dân

Theo Luật giáo dục năm 2005, sửa đổi năm 2009, hệ thống giáo dục quốc dân gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên. Trong hệ thống giáo dục quốc dân thì giáo dục TH thuộc giáo dục phổ thông. Tại điều 26.1.b) “Giáo dục tiểu học được thực hiện trong năm năm học, từ lớp một đến lớp năm. Học sinh vào học lớp một phải hoàn thành chương trình lớp 5 tuổi cấp học mầm non, có tuổi là sáu tuổi” [42].

Theo quy định tại điều 2, Điều lệ trường tiểu học thì: “Trường tiểu học là cơ sở giáo dục phổ thông của hệ thống giáo dục quốc dân. Trường có tư cách pháp nhân, có tài khoản và con dấu riêng”.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.

Sơ đồ 1 1 Vị trí của trường PTDT Bán trú trong hệ thống giáo dục quốc dân 1

Sơ đồ 1.1: Vị trí của trường PTDT Bán trú trong hệ thống giáo dục quốc dân

1.2.2. Các tiêu chuẩn trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia

Chuẩn được hiểu là cái được chọn làm căn cứ để đối chiếu, để hướng theo đó mà làm cho đúng [40]. Chuẩn quốc gia của trường TH là chuẩn do Nhà nước quy

định bằng pháp luật mà trường TH lấy đó làm căn cứ để xây dựng nhà trường. Các tiêu chuẩn của trường TH đạt chuẩn quốc gia được qui định rất cụ thể tại Thông tư số 59/2012/TT-BGDĐT ngày 28 tháng 12 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy chế công nhận trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia. Có 5 tiêu chuẩn được đề cập đến trong Thông tư này chương II [trang 5]:

Tiêu chuẩn 1 - Tổ chức và quản lý nhà trường

Tiêu chuẩn 2 - Cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên và học sinh Tiêu chuẩn 3 - Cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học

Tiêu chuẩn 4 - Quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội Tiêu chuẩn 5 - Hoạt động giáo dục và kết quả giáo dục

1.2.3. Đặc điểm của trường PTDT Bán trú tiểu học

Trường PTDTBT tiểu học là trường chuyên biệt, được Nhà nước thành lập cho con em các dân tộc thiểu số, con em gia đình các dân tộc định cư lâu dài tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nhằm góp phần tạo nguồn đào tạo cán bộ cho các vùng này. Trường PTDTBT có số lượng học sinh bán trú theo quy định.

Học sinh bán trú là học sinh ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, được cấp có thẩm quyền cho phép ở lại trường để học tập trong tuần, do không thể đi đến trường và trở về nhà trong ngày.

1.3. Một số định hướng về cơ sở vật chất trường PTDT Bán trú tiểu học theo tiêu chuẩn trường chuẩn quốc gia

1.3.1. Các khái niệm cơ bản

1.3.1.1. Cơ sở vật chất trường học

CSVC trường học được hiểu là những phương tiện vật chất, kỹ thuật và sản phẩm khoa học, công nghệ, thông tin của nhà trường được sử dụng làm công cụ để thực hiện nhiệm vụ, tiến hành các hoạt động theo qui định.

Hệ thống CSVC trường học bao gồm:

- Đất đai (mặt bằng);

- Các công trình kiến trúc (trụ sở, phòng làm việc, hội trường và phòng họp, phòng học, phòng thư viện, phòng thiết bị, phòng ngoại ngữ, phòng âm nhạc, phòng mĩ thuật, phòng máy tính, nhà kho, nhà xe, phòng y tế, phòng ở học sinh, nhà ăn tập thể, bếp ăn, nhà đa năng,…);

- Các công trình ngoại thất như sân vườn, cây cảnh, đài phun nước, hệ thống thoát nước, đường xá, sân thể thao;

- Các loại máy móc, phương tiện, trang thiết bị;

- Dụng cụ, đồ dùng;

- Ấn phẩm, tài liệu, sách báo, tư liệu điện tử (bao hàm cả mạng máy tính và các phần mềm công cụ, dữ liệu thông tin);

- Vật liệu, nhiên liệu.

Do CSVC trường học có cấu trúc đa dạng, để thuận tiện trong quản lý đầu tư, các nhà quản lý thường phân chia hai nhóm: tài sản cố định và trang thiết bị. Tài sản cố định bao gồm đất đai và các công trình xây dựng. Trang, thiết bị bao gồm máy móc, phương tiện, vật dụng, đồ dùng, ấn phẩm, tài liệu, thông tin tư liệu và sản phẩm khoa học công nghệ (được sử dụng như công cụ).

Trong một số văn bản quản lý, CSVC trường học còn được gọi là “cơ sở vật chất kỹ thuật”, “cơ sở vật chất - thiết bị” hay “hạ tầng vật chất - kỹ thuật” của trường học.

1.3.1.2. Cơ sở vật chất phục vụ đào tạo

Quan niệm theo nghĩa rộng thì toàn bộ CSVC và thiết bị của mỗi nhà trường đều nhằm phục vụ đào tạo (dạy học), kể cả tòa nhà hành chính và trang thiết bị kèm theo. Trường tồn tại trước hết vì mục đích đào tạo. Ở đây, xem xét hệ thống CSVC và thiết bị phục vụ đào tạo theo nghĩa hẹp. Đó là các khu vực có liên quan trực tiếp đến hoạt động dạy học, NCKH và sinh hoạt mà “khách hàng” chính thụ hưởng dịch vụ là HS và GV.

Hệ thống CSVC và thiết bị phục vụ đào tạo của trường bao hàm phần lớn các khu vực được đầu tư lớn của nhà trường. Đó là tổ hợp nhiều hạng mục khác nhau, cụ thể:

- Thư viện;

- Phòng thiết bị, phòng ngoại ngữ, phòng âm nhạc, phòng mĩ thuật, phòng máy tính;

- Phòng học, phòng bộ môn, thiết bị dạy học kèm theo;

- Nhà thể thao, phòng ở học sinh, công trình phục vụ người học, mạng thông tin,…

Việc phân định CSVC phục vụ ĐT (theo nghĩa hẹp nêu trên) chỉ có tính tương đối. Trên thực tế không thể khẳng định rõ hạng mục nào trong tổng thể hạ tầng vật chất - kỹ thuật của trường học không phục vụ đào tạo.

1.3.2. Vị trí, vai trò của CSVC trong hoạt động của nhà trường

Hoạt động giáo dục, đào tạo xem xét theo lý luận giáo dục bao gồm các thành tố: mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục, phương tiện và điều kiện giáo dục, lực lượng giáo dục, hình thức tổ chức giáo dục, kết quả giáo dục, môi trường giáo dục. Sản phẩm giáo dục đạt được ở mức độ nào, phụ thuộc vào chất lượng từng thành tố và mối quan hệ tương tác giữa chúng. Trong quá trình giáo dục, phương tiện giáo dục được xem như điều kiện cần để có chất lượng giáo dục.

Phân tích mối quan hệ giữa các thành tố của quá trình ĐT, tác giả Đặng Quốc Bảo [2] nhấn mạnh: Ba nhân tố lực lượng ĐT (người dạy), đối tượng ĐT (người học), thiết bị dạy học là các lực lượng vật chất hiện thực hóa mục tiêu ĐT, tái tạo, sáng tạo nội dung ĐT và phương pháp ĐT. Thiết bị dạy học là cầu nối để người dạy, người học cùng hành động tương hợp với nhau chiếm lĩnh được nội dung ĐT, sử dụng phương pháp ĐT, thực hiện mục tiêu ĐT.

Nghiên cứu về đặc trưng của hoạt động, tác giả Thái Duy Tuyên [50] cho rằng: Trong mọi hoạt động của con người, có ba phạm trù nội dung, phương pháp và phương tiện luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Mỗi nội dung hoạt động đòi hỏi phương pháp và phương tiện tương ứng. Với hoạt động dạy học cũng vậy, nội dung dạy học chỉ được thực hiện tốt nếu có phương pháp dạy học phù hợp. Phương tiện dạy học cần thiết để sử dụng hiệu quả các phương pháp dạy học. Trong nhiều trường hợp, sự cải tiến và sáng tạo những phương tiện lao động làm nảy sinh những nội dung và phương pháp mới có chất lượng cao hơn. Ngày nay, sự thay đổi về số lượng và chất lượng của phương tiện dạy học đã làm thay đổi vị trí của chúng trong quá trình giáo dục.

Tác giả Vũ Trọng Rỹ [45] nhấn mạnh: “Muốn tiến hành một hoạt động giáo dục nào đó và tiến hành có hiệu quả thì nhất thiết phải có cơ sở vật chất - kỹ thuật tương ứng”. Trong GD, người dạy sử dụng CSVC với tư cách là phương tiện điều khiển hoạt động nhận thức của người học, còn đối với người học thì đây là nguồn tri thức, giúp họ tiếp tục đi sâu lĩnh hội các khái niệm, lý thuyết khoa học, hình thành phương pháp khoa học, các kỹ năng, kỹ xảo theo yêu cầu mục tiêu ĐT, giúp họ biết áp dụng tri thức, phương pháp, kỹ năng đó vào thực tiễn và không ngừng nâng cao năng lực.

Các nhà lý luận QLGD khẳng định rằng, một nền giáo dục tiên tiến phải thường xuyên cải tiến nội dung ĐT, phương pháp ĐT. Điều này càng quan trọng đối với GD trong thời đại phát triển nhanh chóng của tri thức, khoa học và công nghệ. Quá trình ĐT của các trường ngày nay nhấn mạnh yêu cầu tự nhận thức - tự học của người học dưới sự hướng dẫn của người dạy. Do vậy, nhà trường sẽ không thể tiến hành hoạt động ĐT (theo đúng nghĩa), không thể đổi mới nội dung chương trình, phương pháp, phương thức ĐT, nếu thiếu thư viện, phòng thí nghiệm, thực hành, nhà thể thao, giảng đường và thiết bị kèm theo cũng như các hạng mục CSVC cần thiết khác. Ở mức độ khái quát, vị trí của CSVC trong hoạt động ĐT có thể phác họa qua sơ đồ Hình 1.1.

NỘI DUNG

NGƯỜI DẠY

CSVC PHỤC VỤ ĐT

NGƯỜI HỌC

PHƯƠNG PHÁP


Hình 1.1: Sơ đồ khái quát vị trí của CSVC trong hoạt động ĐT


Vai trò của CSVC trong hoạt động ĐT thể hiện qua các dấu hiệu:

- Là công cụ lao động của GV. Với sự phát triển nhanh chóng của tri thức, khoa học và công nghệ, để truyền tải một khối lượng kiến thức lớn đến người học, để trang bị những kỹ năng cần thiết cho HS, người dạy cần có các thiết bị kỹ thuật hỗ trợ (tài liệu tham khảo, thiết bị, các phần mềm dạy học, thí nghiệm,…). Thiết bị hiện đại có thể giúp người học tham gia hiệu quả cùng người dạy vào các hoạt động sáng tạo.

- Là công cụ nhận thức của HS. Thiết bị thí nghiệm, thực hành, mạng máy tính, phần mềm hỗ trợ, thiết bị nghe nhìn, dụng cụ thể thao, phòng học bộ môn, tài liệu, thông tin,... có vai trò như công cụ “nối dài” các giác quan của người học, làm cho hoạt động nhận thức khoa học hiệu quả hơn, sâu sắc, bền vững hơn, giúp trang bị cho họ những kỹ năng cần thiết cho công việc và để có thể học tập suốt đời, tiếp tục phát triển năng lực sau ĐT.

- Là công cụ hiện thực hóa nội dung, mục tiêu dạy học. Phòng học là điều kiện tối thiểu để tổ chức lớp học. Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, bài giảng của người thầy chỉ có thể đóng vai trò định hướng, gợi mở cho sự tìm tòi, nghiên cứu tiếp theo của HS. Thư viện, phòng thiết bị, phòng bộ môn, mạng thông tin,… là công cụ không thể thiếu để hiện thực hóa nội dung, chương trình, mục tiêu ĐT.

- Là phương tiện vật chất hóa phương pháp dạy học. Sự xuất hiện của máy móc, dây chuyền sản xuất hiện đại làm cho quy trình sản xuất được tổ chức khoa học và hiệu quả hơn. Mạng internet, các phần mềm thí nghiệm hay máy tính bảng xuất hiện gần đây là những ví dụ cụ thể về vai trò vật chất hóa phương pháp dạy học của trang thiết bị. Các phòng bộ môn với trang thiết bị hiện đại, thiết bị thí nghiệm với các phần mềm hỗ trợ theo công nghệ mới góp phần không nhỏ thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học.

1.3.3. Nội dung của cơ sở vật chất theo tiêu chuẩn trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia [8]

- Thực hiện quy định công khai điều kiện dạy học, chất lượng giáo dục, quản lý tài chính, tài sản, tự chủ tài chính, các nguồn kinh phí được đầu tư, hỗ trợ của nhà trường theo qui định hiện hành.

- Khuôn viên nhà trường được xây dựng riêng biệt, có tường rào, cổng trường, biển trường; các khu vực trong nhà trường được bố trí hợp lý, luôn sạch, đẹp. Đủ diện tích sử dụng để đảm bảo tổ chức các hoạt động quản lý, dạy học và sinh hoạt.

a. Các trường nội thành, nội thị có diện tích sử dụng ít nhất từ 6m2/HS;

b. Các trường khu vực nông thôn, vùng núi có diện tích sử dụng ít nhất từ 10m2/học sinh;

c. Đối với trường tiểu học được thành lập từ sau năm 2001 phải bảo đảm có diện tích mặt bằng theo qui định hiện hành của Điều lệ trường tiểu học;

- Có đầy đủ cơ sở vật chất theo quy định hiện hành của Điều lệ trường TH.

- Cơ cấu các khối công trình trong trường bao gồm:

a. Khu phòng học, phòng bộ môn:

a.1. Có đủ số phòng học cho mỗi lớp học; diện tích phòng học, bàn ghế học sinh, bàn ghế giáo viên, bảng đúng quy cách; phòng học thoáng mát, đủ ánh sáng, an toàn;

a.2. Có phòng y tế trường học đảm bảo theo quy định hiện hành về hoạt động y tế trong các trường tiểu học;

b. Khu phục vụ học tập:

b.1. Có các phòng học bộ môn đạt tiêu chuẩn theo quy định hiện hành của qui định về phòng học bộ môn; phòng thiết bị dạy học, với đầy đủ trang thiết bị dạy học;

b.2. Có thư viện theo tiêu chuẩn quy định về tổ chức và hoạt động của thư viện trường học, chú trọng phát triển nguồn tư liệu điện tử gồm: tài liệu, sách giáo khoa, giáo án, câu hỏi, bài tập, đề kiểm tra, đề thi...; cập nhật thông tin về giáo dục trong và ngoài nước đáp ứng yêu cầu tham khảo của GV và HS;

b.3. Có phòng truyền thống; khu luyện tập thể dục thể thao; phòng làm việc của Công đoàn; phòng hoạt động của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh; Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh đối với trường tiểu học;

c. Khu văn phòng:

Có phòng làm việc của Hiệu trưởng, phòng làm việc của từng phó Hiệu trưởng, văn phòng nhà trường, phòng họp hội đồng giáo dục nhà trường, phòng thường trực, kho;

d. Khu sân chơi sạch, đảm bảo vệ sinh và có cây bóng mát;

Xem tất cả 125 trang.

Ngày đăng: 21/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí