Thực Hiện Phân Cấp Quản Lý Đầu Tư Và Xây Dựng


Cho lập dự án mới còn nhiều, trong khi khả năng bố trí vốn để đầu tư xây dựng còn bị hạn chế. Hàng năm có kế hoạch chuẩn bị đầu tư, xong số dự án ghi danh mục chuẩn bị đầu tư vẫn còn nhiều, mặt khác trong năm phát sinh thêm không ít chủ trương cho lập dự án.

Một số dự án chưa triển khai thực hiện đã có chủ trương cho lập lại, thay đổi quy mô hoặc phát sinh khối lượng. Các ngành, huyện, thành phố trình UBND tỉnh xin chủ trương đầu tư quá nhiều đây là nguyên nhân chính dẫn đến đầu tư dàn trải.

Một số dự án khi xin chủ trương cho lập dự án, chủ đầu tư đề nghị phê duyệt dự án để xin tài trợ quốc tế hoặc hỗ trợ từ các Trung ương, nhưng sau một thời gian không có nguồn, lại xin chuyển sang phần vốn đã được phân bổ cho ngân sách tỉnh, làm cho lượng ngân sách đầu tư xây dựng của tỉnh đã hạn hẹp lại càng khó khăn hơn.

- Công tác kế hoạch hoá vốn đầu tư đến nay mới làm được các nguồn vốn ngân sách đầu tư tập trung, vốn ODA và các Chương trình mục tiêu. Còn nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước chưa phản ảnh trong kế hoạch. Việc tổ chức theo dõi các nguồn vốn đầu tư của Trung ương, nguồn tài trợ của nước ngoài đầu tư cho các ngành ở địa phương, vốn đầu tư của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, của dân cư chưa đầy đủ, kịp thời. Đầu tư phát triển của khu vực ngoài quốc doanh chưa có định hướng và quản lý của Nhà nước mà thường mang tính tự phát.

3.2.4.2. Thực hiện phân cấp quản lý đầu tư và xây dựng

UBND tỉnh đã ban hành Quyết định uỷ quyền cho Chủ tịch UBND huyện, thành phố quyết định đầu tư các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách địa phương (bao gồm cả các khoản được cấp từ ngân sách cấp trên, vốn huy động hợp pháp) có mức vốn không quá 05 tỷ đồng;


Các dự án được phân cấp phải được UBND cấp trên đồng ý về mặt chủ trương, phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và phù hợp với khả năng cân đối nguồn vốn.

Việc thực hiện tốt việc phân cấp quản lý đầu tư và xây dựng đã giành quyền tự quyết định và tự chịu trách nhiệm cho các cấp ở cơ sở và các chủ đầu tư.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.

- Tạo điều kiện cho cấp huyện, thành phố, xã, phường, thị trấn chủ động quyết định đầu tư các dự án thuộc thẩm quyền được phân cấp. Giảm thủ tục hành chính với các cấp các ngành.

- Giảm bớt công việc không cần thiết cho UBND tỉnh và các ngành.

Quản lý các dự án đầu tư sử dụng vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Hà Giang - 10

- Nâng cao trách nhiệm của cấp được phân cấp trong quản lý đầu tư và xây dựng.

Qua thực tế thực hiện cho thấy còn nhiều bất cập, phân bổ vốn cho nhiều công trình, dự án khá phân tán; bố trí vốn cho các dự án quá nhỏ không có khả năng hoàn thành dự án theo tiến độ để đưa vào sử dụng phát huy hiệu quả. Tình trạng bố trí vốn dàn trải, phân tán đã giảm ở cấp tỉnh nhưng lại diễn ra ở cấp Huyện, thành phố. Trình độ chuyên môn về quản lý đầu tư của các đơn vị được phân cấp chưa đáp ứng được yêu cầu, độ ngũ cán bộ còn thiếu. đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý đầu tư và xây dựng ở các Huyện, thành phố; các xã, phường, thị trấn vừa thiếu vừa yếu kém về trình độ; một số Phòng công thương ở cấp Huyện không có cán bộ có trình độ Đại học quản lý đầu tư xây dựng chuyên ngành;Việc chấp hành quy định về chế độ báo cáo tình hình thực hiện các công trình XDCB, báo cáo giám sát đánh giá đầu tư của các huyện, các chủ đầu tư với các cơ quan quản lý nhà nước còn thiếu và chậm.

Năm 2010, nguồn vốn đầu tư XDCB phân cấp cho ngân sách huyện, thành phố tự phân bổ là 89,866 tỷ đồng, các huyện, thành phố đã phân bổ cho 159 công trình và hạng mục công trình.


Năm 2011, nguồn vốn đầu tư XDCB phân cấp cho ngân sách huyện, thành phố tự phân bổ là 120 tỷ đồng, các huyện, thành phố đã phân bổ cho 235 công trình và hạng mục công trình.

Năm 2012, không có kế hoạch nguồn vốn đầu tư XDCB phân cấp cho ngân sách huyện.

Năm 2013, nguồn vốn đầu tư XDCB phân cấp cho ngân sách huyện, thành phố tự phân bổ là 80 tỷ đồng, các huyện, thành phố đã phân bổ cho 252 công trình và hạng mục công trình.

3.2.4.3. Công tác lập và quản lý quy hoạch

Nhiều quy hoạch ngành, quy hoạch xây dựng chi tiết còn thiếu hoặc đã quá cũ, lạc hậu. Một số quy hoạch vừa mới lập và phê duyệt đã xin sửa đổi, bổ sung. Qui hoạch xây dựng không đồng bộ, chất lượng qui hoạch thấp. Nhiều qui hoạch chưa phù hợp với điều kiện thực tế dẫn đến khi thực hiện dự án gây lãng phí, nhất là khâu đền bù giải phóng mặt bằng.

Ví dụ, như chưa xây dựng quy hoạch hệ thống bến xe toàn tỉnh nhưng đã xây dựng và phê duyệt các quy hoạch chi tiết xây dựng bến xe tại các huyện Mèo Vạc, huyện Bắc Quang, nhiều quy hoạch phát triển ngành xin điều chỉnh như quy hoạch phát triển nông nghiệp nông thôn, quy hoạch phát triển công nghiệp …

Việc phối kết hợp giữa ngành với ngành, giữa ngành với cấp trong việc lập quy hoạch còn hạn chế, trình độ của đơn vị tư vấn lập quy hoạch chưa cao, do đó có những quy hoạch vừa mới duyệt xong đã phải phê duyệt lại.

Quy hoạch xây dựng xã, phường chưa được quan tâm, hầu hết các xã, phường chưa có quy hoạch chi tiết.

Công tác quản lý qui hoạch còn buông lỏng. Phân công, phân cấp không rõ ràng, thiếu một khung pháp lý đầy đủ cho việc lập, phê duyệt, quản


lý quy hoạch, thiếu sự chỉ đạo và hướng dẫn thống nhất về các vấn đề liên quan đến công tác quy hoạch, thiếu kiểm tra, giám sát thực hiện quy hoạch.

Nhiều đơn vị, cá nhân chưa nhận thức đúng đắn về vai trò của công tác quy hoạch. Việc phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong quá trình lập quy hoạch ngành, lãnh thổ chưa thống nhất, thiếu sự phối hợp nên xảy ra tình trạng quy hoạch chồng chéo và không ăn khớp giữa quy hoạch ngành, quy hoạch vùng lãnh thổ.

Các quy hoạch sau khi được duyệt chưa công bố rộng rãi để các tổ chức, cá nhân được biết và thực hiện theo quy hoạch.

3.2.4.4. Công tác lập và thẩm định dự án đầu tư, thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán

a. Lập dự án đầu tư.

Chủ đầu tư có trách nhiệm lập (hoặc thuê tổ chức tư vấn) báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu khả thi hoặc báo cáo đầu tư để trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, phần lớn các chủ đầu tư của Tỉnh không đủ khả năng lập dự án nên đều phải thuê tư vấn, chất lượng một số nhà tư vấn chưa thật đáp ứng theo yêu cầu.

Tư vấn lập dự án đầu tư, thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công - tổng dự toán ở một số công trình chất lượng còn thấp, chưa đưa ra nhiều phương án để lựa chọn, chưa tuân thủ theo tiêu chuẩn, quy phạm (có một số công trình tư vấn làm theo yêu cầu của chủ đầu tư, nâng quy mô càng lớn càng tốt), số liệu điều tra, khảo sát chưa chính xác. Trong thiết kế thường tính thiên về an toàn quá lớn, trong tính toán dự toán áp dụng đơn giá, định mức và các chế độ tài chính trong XDCB chưa chính xác hoặc sót khối lượng công việc.

- Chủ đầu tư có trách nhiệm trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán, trước khi trình, chủ đầu tư phải tổ chức


nghiệm thu sản phẩm do nhà tư vấn thực hiện, chủ đầu tư của Tỉnh nói chung chưa thực hiện được việc này.

- Tư vấn lập dự án đầu tư: Chất lượng một dự án phụ thuộc vào rất nhiều vào trình độ của tư vấn, theo Luật đấu thầu phải xem xét nhiều nhà tư vấn để chọn một tư vấn có năng lực nhất.

Thực tế trong thời gian qua, vẫn còn có nhà tư vấn thiếu kinh nghiệm trong việc lập dự án, nên dự án lập ra thiếu sức thuyết phục, có nhà thầu tư vấn trong quá trình lập dự án bỏ qua các quy định của nhà nước, không áp dụng Qui chuẩn xây dựng, tiêu chuẩn, qui phạm thiết kế, không có khảo sát địa hình, địa chất công trình, không quan tâm đến hướng gió hoặc có nhà tư vấn bỏ sót các hạng mục quan trọng như cấp thoát nước, phòng chống cháy, nổ; đánh giá tác động môi trường...

Một trong những nguyên tắc quan trọng của việc lập dự án đầu tư là nhà tư vấn phải đưa ra được nhiều phương án, phân tích lựa chọn phương án tối ưu để chủ đầu tư và cơ quan thẩm định xem xét hoặc nếu có thêm một số phương án thì các phương án đó, nhà tư vấn chỉ tính toán một cách chiếu lệ, ít giá trị so sánh. Một số dự án điều chỉnh lại nhiều lần do chế độ chính sách, tăng thuế VAT, giá cả luôn thay đổi lớn và thời gian thi công kéo dài.

b. Thẩm định dự án đầu tư

Trong quá trình thẩm định dự án đầu tư đã tuân thủ theo qui hoạch phát triển kinh tế, qui hoạch vùng, ngành lãnh thổ, áp dụng đúng chế độ chính sách của Nhà nước hiện hành, đúng thời gian qui định và giảm các thủ tục phiền hà thực hiện theo chế độ một cửa.

Các dự án đã thẩm định cơ bản đã được bố trí kế hoạch thực hiện đầu tư. Một số dự án đã đưa vào sử dụng đạt hiệu quả cao.

Công tác thẩm định còn bộc lộ những yếu điểm sau:


- Độ chính xác của công tác thẩm định chưa cao do chất lượng hồ sơ dự án cũng như thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán thấp, chưa đề cập hết các nội dung của một dự án như quy định (Ví dụ: Số liệu khảo sát, nghiên cứu hiện trạng và dự báo không chính xác...)

- Thời gian thẩm định của một số dự án kéo dài so với quy định do việc phối hợp giữa các cơ quan có liên quan thiếu chặt chẽ, có cơ quan chưa thực hiện nghiêm về thời gian theo quy định, (cơ quan được lấy ý kiến đã không trả lời hoặc kéo dài thời gian so với quy định)

- Thời gian khởi công - hoàn thành: Thường các chủ đầu tư đề xuất thời gian khởi công - hoàn thành ngắn, nhiều dự án chưa thực hiện đúng theo thời gian trong quyết định đầu tư. Nguyên nhân của việc kéo dài thời gian thực hiện dự án là: Khả năng nguồn vốn cho các dự án không đáp ứng được; Số lượng dự án bố trí trong kế hoạch chuẩn bị đầu tư và cho phép lập dự án của cấp có thẩm quyền quá nhiều; một số dự án do yêu cầu của các nhà tài trợ vốn phải lập và phê duyệt dự án trước; đã gây không ít khó khăn cho công tác thẩm định.

- Mỗi một nội dung thẩm định do một cơ quan chịu trách nhiệm, thời gian thẩm định dự án nhanh hay chậm không chỉ so một cơ quan mà phụ thuộc vào thời gian giải quyết các vấn đề cụ thể của các cơ quan có liên quan.

c. Công tác lập, thẩm định TKKT, tổng dự toán

+ Lập TKKT, tổng dự toán: Về tồn tại của tổ chức tư vấn lập TKKT, tổng dự toán.

- Một số tổ chức tư vấn có xu hướng chạy theo doanh thu và quá giữ mình nên đã đẩy hệ số an toàn lên cao, dẫn đến tổng dự toán cao. Một số tổ chức tư vấn yếu kém về chuyên môn nên đã bỏ sót nhiều yếu tố, bỏ sót hạng mục của công trình hoặc thiết kế công trình không theo đúng quy định của nhà nước.


- Tổ chức thiết kế chưa thực hiện công tác giám sát tác giả trong suốt quá trình thi công, xây lắp, hoàn thiện và nghiệm thu công trình.

+ Thẩm định thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công - tổng dự toán: Về tồn tại trong thẩm định thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công - tổng dự toán có thể nêu tóm tắt như sau:

- Chủ đầu tư không tổ chức nghiệm thu sản phẩm thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công - tổng dự toán do cơ quan tư vấn lập trước khi trình thẩm định.

- Có cơ quan thẩm định quá tin tưởng ở đơn vị tư vấn.

- Thời gian thẩm định kéo dài.


3.2.4.5. Quản lý công tác đấu thầu

- Hệ thống pháp lý về đấu thầu đã được hình thành và luôn luôn được hoàn chỉnh cho phù hợp. Trong thực tế, Luật đấu thầu là một công cụ để toàn xã hội giám sát các hoạt động của các Ban quản lý, Chủ đầu tư; làm cho việc sử dụng đồng tiền của nhà nước có hiệu quả.

- Đấu thầu mang lại hiệu quả rõ rệt.

- Hiệu quả qua đấu thầu trước tiên là ở chỗ thông qua đấu thầu chúng ta lựa chọn được nhà thầu đủ kinh nghiệm và năng lực để thực hiện công việc theo yêu cầu. Nhà thầu phải có giải pháp khả thi để thực hiện công việc được giao và đảm bảo trúng thầu không được vượt giá gói thầu và giá dự toán được duyệt.

- Hiệu quả của đấu thầu chính là tạo ra sự cạnh tranh để làm động lực cho sự phát triển, đã tạo ra được nhiều công ty mạnh có đủ năng lực thiết bị, con người và tiền vốn đảm đương được công trình phức tạp và vốn lớn, thời gian thi công ngắn, đạt được chất lượng cao

- Tiết kiệm được nguồn vốn đầu tư

- Thông qua đấu thầu công tác giải ngân, thanh quyết toán nhanh gọn hơn.

- Các công trình đưa vào sử dụng đúng tiến độ sớm phát huy được hiệu quả.

- Công tác đấu thầu đã được toàn xã hội quan tâm.


Tuy nhiên, trong những năm qua, quản lý công tác đấu thầu còn bộc lộ những hạn chế:

- Nhiều gói thầu tiến hành tổ chức đấu thầu còn mang tính hình thức, không có sự cạnh tranh bình đẳng. Tỷ lệ giảm giá thấp, giá trúng thầu của hầu hết các gói thầu xấp xỉ bằng giá gói thầu (giá dự toán).

Sự hiểu biết về trình tự và các qui định về đấu thầu của một số các cơ quan quản lý và các nhà thầu còn hạn chế.

Việc lập Hồ sơ mời thầu của một số gói thầu chưa đảm bảo yêu cầu, chưa bám sát yêu cầu kỹ thuật của thiết kế nên phải điều chỉnh, sửa chữa nhiều lần.

Việc lựa chọn năng lực các Nhà thầu tham gia đấu thầu còn hạn chế, nhiều Nhà thầu năng lực kém không phù hợp với yêu cầu gói thầu mà vẫn được Chủ đầu tư mời tham gia dự thầu, dẫn đến có Nhà thầu tham gia dự thầu nhiều các gói thầu nhưng không trúng thầu. Chất lượng hồ sơ dự thầu của các nhà thầu không trúng thầu rất thấp, mang tính chất hình thức, không bám sát hồ sơ mời thầu.

3.2.4.6. Công tác thanh quyết toán và giá xây dựng

Công tác thanh quyết toán của chủ đầu tư chậm so với qui định, chất lượng lập hồ sơ quyết toán còn thấp thiếu cơ sở.

Một số dự án thủ tục thanh toán, cấp phát chưa đảm bảo nhưng vẫn cấp phát. Có công trình đã quyết toán nhưng khi thanh tra, kiểm tra vẫn tìm ra những thất thoát lãng phí. Thủ tục thanh toán, cấp phát và thẩm định quyết toán chưa cải tiến, đôi khi còn gây phiền hà không cần thiết.

Về giá xây dựng:

Một số công tác xây dựng chuyên ngành hoặc có công nghệ thi công mới chưa xây dựng được định mức, đơn giá.

Giá vật liệu thông báo chậm, thông báo theo từng quý không phù hợp với sự thay đổi nhanh của thị trường. Hệ số đơn giá vật liệu khu vực theo

Xem tất cả 131 trang.

Ngày đăng: 25/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí