Tổng Số Gv Dạy Học Các Môn Có Chủ Đề Tự Chọn Của Ba Trường Thpt Huyện Hà Quảng, Tỉnh Cao Bằng‌

Bảng 2.5. Tổng số GV dạy học các môn có chủ đề tự chọn của ba trường THPT huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng‌


Các môn

Số lượng GV


Tổng số

THPT

Hà Quảng

THPT

Nà Giàng

THPT

Lục Khu

Toán

4

6

3

13

2

3

2

7

Hóa

2

3

2

7

Sinh

2

1

2

5

Văn

3

4

3

10

Sử

1

2

2

5

Địa

2

1

2

5

T. Anh

3

4

3

10

Tổng

19

24

19

62

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

Từ bảng trên, ta thấy số lượng GV tham gia dạy học các môn các môn tự chọn có chủ đề bám sát của ba trường THPT huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng là 62, tỷ lệ 75,61%.

- Địa bàn khảo sát: Các trường THPT huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, gồm: THPT Nà Giàng, THPT Hà Quảng, THPT Lục Khu.

Thời gian khảo sát: Năm học 2017 - 2018.

2.2.3. Nội dung khảo sát

- Khảo sát đánh giá thực trạng số lượng, chất lượng, cơ cấu đội ngũ giáo viên ba trường THPT huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng.

- Khảo sát, đánh giá thực trạng năng lực dạy học tự chọn của GV ở ba trường THPT huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng.

- Khảo sát, đánh giá thực trạng BD và quản lý BD năng lực dạy học tự chọn của GV ở ba trường THPT huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng.

- Rút ra những ưu điểm và hạn chế về năng lực DH tự chọn và quản lý BD năng lực dạy học tự chọn của GV ở ba trường THPT huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng và nguyên nhân của nó. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới BD và quản lý BD năng lực dạy học tự chọn của GV ở ba trường THPT huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng.

2.2.4. Công cụ khảo sát

Trong quá trình khảo sát thực trạng, tác giả sử dụng các công cụ khảo sát như:

- Sử dụng phiếu điều tra.

- Sử dụng phiếu trưng cầu ý kiến.

2.2.5. Cách xử lý kết quả

Để xử lý kết quả khảo sát, tác giả sử dụng phương pháp thống kê toán học. Cụ thể là cách tính phần trăm, điểm trung bình… để tính tỷ lệ các ý kiến được hỏi, làm căn cứ để so sánh, nhận xét, đánh giá thực trạng về đội ngũ GV, thực trạng năng lực DH các môn tự chọn, thực trạng BD NLDH các môn tự chọn, thực trạng quản lý BD NLDH các môn tự chọn ở các trường THPT huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng.

2.3. Thực trạng năng lực dạy học các môn tự chọn của giáo viên các trường THPT huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng

Năng lực dạy học các môn tự chọn có chủ đề bám sát có cơ sở từ năng lực dạy học các môn cơ bản. Vì thế, để đánh giá năng lực dạy học các môn tự chọn của giáo viên, tác giả căn cứ vào các tiêu chí về năng lực dạy học của giáo viên được quy định trong Chuẩn nghề nghiệp giáo viên. Trên cơ sở đó, tác giả đã thăm dò khảo sát thực trạng năng lực dạy học các môn tự chọn của giáo viên các trường THPT ở huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng theo 3 bước:

- Bước 1: Giáo viên tự đánh giá, xếp loại (theo phụ lục 1) với số lượng phiếu phát ra là 62, là số GV tham gia dạy học các môn tự chọn có chủ đề bám sát.

- Bước 2: Tổ chuyên môn đánh giá, xếp loại GV (theo phụ lục 2, 3) với số lượng phiếu phát ra là 62, là số GV tham gia dạy học các môn tự chọn có chủ đề bám sát.

- Bước 3: Hiệu trưởng đánh giá, xếp loại GV (theo phụ lục 4) với số lượng phiếu phát ra là 62, là số GV tham gia dạy học các môn tự chọn có chủ đề bám sát.

Tất cả các phiếu điều tra thu về đều được trả lời đầy đủ các nội dung.

* Kết quả thu được như sau:

- GV tự đánh giá:

Bảng 2.6. Kết quả do GV tự đánh giá


Xếp loại

Số lượng

Tỷ lệ

Loại xuất sắc: Tổng điểm từ 26 đến 32 điểm

12

19,4%

Loại khá: Tổng điểm từ 21 đến 25 điểm

47

75,8%

Loại trung bình: Tổng điểm từ 8 - 20 điểm

3

4,8%

Loại chưa đạt chuẩn: Tổng điểm dưới 8 điểm

0

0%

Tổng

62

100%


- TTCM và Hiệu trưởng đánh giá GV:

Bảng 2.7. Kết quả do TTCM và Hiệu trưởng tự đánh giá GV


Xếp loại

Số lượng

Tỷ lệ

Loại xuất sắc: Tổng điểm từ 26 đến 32 điểm

10

16,1%

Loại khá: Tổng điểm từ 21 đến 25 điểm

49

79,1%

Loại trung bình: Tổng điểm từ 8 - 20 điểm

3

4,8%

Loại chưa đạt chuẩn: Tổng điểm dưới 8 điểm

0

0%

Tổng

62

100%

* Từ thực tiễn điều tra và kết quả khảo sát trên ta thấy:

- Thực trạng về năng lực xây dựng kế hoạch dạy học các môn tự chọn:

Tất cả giáo viên các trường THPT ở huyện Hà Quảng đều được tham gia xây dựng kế hoạch dạy học các môn tự chọn trong năm học. Vào đầu năm học, Sở GD&ĐT chỉ đạo các trường xây dựng kế hoạch dạy học các môn tự chọn, Hiệu trưởng các trường giao về các tổ/nhóm chuyên môn của 8 môn thực hiện dạy học các môn tự chọn tập hợp các thành viên tổ chức xây dựng kế hoạch. Sau khi hoàn thiện, các tổ/nhóm chuyên môn trình Hiệu trưởng phê duyệt, Hiệu trưởng trình phòng GDTrH, Sở GD&ĐT Cao Bằng để phê duyệt. GV thực hiện theo kế hoạch đã xây dựng trong năm học.

Nội dung của kế hoạch dạy học các môn tự chọn phải căn cứ vào chủ đề tự chọn bám sát, gắn liền với nội dung bài học chính khóa, nhằm mục đích khắc sâu, mở rộng kiến thức, hướng tới rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn.

Kế hoạch thể hiện đủ các bước của quá trình xây dựng kế hoạch như căn 1

Kế hoạch thể hiện đủ các bước của quá trình xây dựng kế hoạch như căn cứ xây dựng kế hoạch, nhiệm vụ chính cần thực hiện, kế hoạch cụ thể theo thời gian. Tuy nhiên, trong kế hoạch còn thiếu phần lực lượng phối hợp và điều kiện để thực hiện kế hoạch và bổ sung rút kinh nghiệm.

Bên cạnh kế hoạch theo năm học thì giáo viên còn phải xây dựng kế hoạch giảng dạy của bài học (giáo án), đòi hỏi thể hiện rõ các bước: mục tiêu bài dạy, phương tiện, phương pháp và những hoạt động chính kết hợp chặt chẽ giữa dạy và học, giữa dạy học và giáo dục, tiến độ thực hiện phù hợp, khả thi. Trong môn học tự chọn có chủ đề bám sát, GV phải xây dựng hai giáo án: Một giáo án giảng dạy nội dung bài học chính khóa theo quy định trong phân phối chương trình của Bộ GD&ĐT; Một giáo án giảng dạy các chủ đề tự chọn bám sát theo kế hoạch mà tổ nhóm chuyên môn xây dựng, có sự ký duyệt của Sở GD&ĐT Cao Bằng.

Ví dụ: GV Nông Thị A giảng dạy môn Ngữ văn, là môn có chủ đề tự chọn. Như vậy, GV Nông Thị A phải có hai bộ giáo án, một bộ là giáo án giảng dạy chính khóa, một bộ là giáo án giảng dạy các chủ đề tự chọn bám sát.

Công việc lập kế hoạch bài học (soạn giáo án) là việc làm thường xuyên liên tục và được giáo viên quan tâm, chuẩn bị trước ít nhất một tuần trước khi lên lớp, tổ trưởng, nhóm trưởng chuyên môn có trách nhiệm ký duyệt giáo án của các tổ viên 2 tuần một lần trước khi dạy, giáo án của tổ trưởng, nhóm trưởng do BGH ký duyệt. Kế hoạch bài học cũng đã thể hiện sự thống nhất giữa dạy và học, giữa dạy học và giáo dục, có tính đến đặc điểm học sinh. Tuy nhiên, chưa dự kiến được các tình huống sư phạm có thể xảy ra và cách xử lý.

Kế hoạch dạy học năm học luôn được bổ sung, điều chỉnh theo năm học cho phù hợp với tình hình thực tế. Kế hoạch bài dạy thường được giáo viên tự rút kinh nghiệm sau khi thực hiện dạy chủ đề tự chọn và được ghi lại ở phần cuối của kế hoạch bài dạy làm cơ sở để GV điều chỉnh kế hoạch bài dạy cho phù hợp, và cũng để GV tự rút kinh nghiệm để giờ dạy sau có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, đa số các GV thực hiện yêu cầu này còn mang tính hình thức, chiếu lệ nên hiệu quả chưa cao.

Mặt khác, nhiều giáo viên việc lập kế hoạch học kỳ và năm học còn mang tính hình thức, chưa quan tâm sâu sắc và chưa thấy ý nghĩa của công tác lập kế hoạch.

Ngoài ra một số giáo viên cũng chưa có kỹ năng lập kế hoạch đồng thời 2

Ngoài ra, một số giáo viên cũng chưa có kỹ năng lập kế hoạch, đồng thời chưa có nhận thức đúng về vai trò của việc lập kế hoạch, nên thường lập kế hoạch qua loa, đại khái.

- Thực trạng về năng lực triển khai các hoạt động dạy học các môn tự chọn, năng lực sử dụng kết hợp các phương pháp, sử dụng các thiết bị vào dạy học các môn tự chọn:

Phần lớn giáo viên các trường THPT huyện Hà Quảng nắm vững nội dung các chủ đề tự chọn thuộc môn học được phân công, mạch kiến thức môn học, xuyên suốt cấp học, bám sát chuẩn kiến thức kỹ năng để đảm bảo tính chính xác, lô gíc, hệ thống, nắm được mối liên hệ giữa kiến thức môn học được phân công với chủ đề tự chọn. Nhưng, mối quan hệ tích hợp liên môn trong dạy học tự chọn chưa được thể hiện rõ nét.

Trung bình ở các trường, mỗi môn có từ 1 đến 3 giáo viên có kiến thức sâu, rộng về môn học để có thể bồi dưỡng HSG, ôn thi Đại học cho học sinh có thể giúp đỡ đồng nghiệp khi gặp khó khăn về những vấn đề chuyên môn. Tuy nhiên vẫn còn một vài giáo viên chỉ nắm vững nội dung môn học được phân công để đảm bảo dạy học chính xác, có hệ thống.

Trong qua trình thực hiện dạy học tự chọn, đa số giáo viên các trường THPT huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng tiến hành một cách hợp lý các phương pháp dạy học đặc thù của môn học phù hợp với tình huống cụ thể trong giờ học, theo hướng phát huy tính tích cực nhận thức, chủ động học tập của học sinh, giúp học sinh biết cách tự học.

Các bộ môn đều có 1 đến 3 giáo viên biết phối hợp linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học tự chọn gây được hứng thú học tập, kích thích tính tích cực, chủ động học tập của học sinh và rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh. Đặc biệt, có một vài giáo viên luôn tích cực, chủ động trong việc đổi mới cách tổ chức dạy học tự chọn, phối hợp các phương pháp dạy học đặc thù của môn học, ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học theo hướng phân hóa, phát huy tính tích cực nhận thức và phát triển kỹ năng tự học của học sinh.

Tuy nhiên vẫn còn có một số ít giáo viên chỉ vận dụng được một số phương pháp dạy học tự chọn theo đặc thù của môn học nên chưa phát huy tính tích cực trong hoạt động học của học sinh trong việc thực hiện kế hoạch bài học.

CNTT là công cụ hỗ trợ đắc lực cho GV trong công tác soạn bài, tra cứu tài liệu giảng dạy được tiện lợi và nhanh chóng. Tuy nhiên, số GV ứng dụng CNTT trong dạy học như trình chiếu power point, video,... vào dạy học các môn tự chọn chưa nhiều, có một số giáo viên sử dụng thì lại “ỷ lại” vào bài giảng điện tử vì cho rằng đó là biện pháp sử dụng thiết bị có hiệu quả nhất, nhưng thực tế giáo viên đã biến phương tiện dạy - học đó thành phương tiện để “nhìn - chép” nên hiệu quả dạy học không cao.

Hiệu quả sử dụng thiết bị hiện nay mới chỉ dừng lại ở các bộ môn sử dụng bản đồ, tranh ảnh. Với các môn cần tổ chức thí nghiệm, thực hành như môn Hóa học, Sinh học, Vật lý, Công nghệ.... thì chưa được thực hiện đầy đủ do hóa chất hỏng, thiết bị thiếu… Số đông giáo viên chỉ biết sử dụng những phương tiện dạy học quy định trong chương trình môn học, trong danh mục thiết bị dạy học môn học mà không có sự cải tiến hoặc linh hoạt trong quá trình thực hiện.

Phần lớn các đồng chí giáo viên đã biết tạo bầu không khí hăng say học tập, kích thích được tính tích cực chủ động của học sinh, lôi cuốn mọi học sinh tham gia vào các hoạt động học tập, tạo dựng được môi trường học tập dân chủ, thân thiện, hợp tác, an toàn và lành mạnh trong quá trình dạy học các môn tự chọn. Có một số giáo viên biết cách ứng xử khéo léo, linh hoạt trong quá trình giảng dạy, như luôn giữ được thái độ bình tĩnh trong mọi tình huống, có sự tôn trọng ý kiến học sinh, biết cách tổ chức các hoạt động để học sinh chủ động phối hợp giữa làm việc cá nhân và nhóm, tạo được không khí thi đua lành mạnh trong lớp học, đảm bảo điều kiện học tập an toàn, khiến cho giờ học trở nêm sinh động, lý thú, nhờ đó mà hiệu quả học tập được nâng lên. Ví dụ như tạo ra các hoạt động nhóm, hoạt động tập thể trong quá trình dạy học để các em học sinh được tham gia nhiều hơn từ đó tạo nên sự tự tin, dân chủ và sự hợp tác trong quá trình dạy học.

Tuy nhiên vẫn còn một số đồng chí giáo viên chưa tạo ra được bầu không khí học tập thân thiện, chưa khuyến khích được học sinh học tập sôi nổi, tiết dạy còn trầm hoặc không khí giờ dạy còn căng thẳng. Ngoài ra, còn nhiều học sinh chưa mạnh dạn, tự tin trả lời câu hỏi của giáo viên, chưa biết, thậm chí chưa dám nêu thắc mắc và trình bày ý kiến của mình trong học tập.

- Thực trạng về năng lực kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh trong hoạt động dạy học các môn tự chọn

Phần lớn giáo viên đã quan tâm tới việc xây dựng, bảo quản, sử dụng hồ sơ dạy học các môn tự chọn. Đầu năm học và trong quá trình dạy học hầu hết giáo viên luôn phải chuẩn bị, hoàn thiện, sử dụng và bảo quản hồ sơ dạy học các môn tự chọn. Số đông giáo viên đã biết cách xây dựng, sử dụng và bảo quản hồ sơ phù hợp với nhiệm vụ công tác của mình, các tài liệu, tư liệu trong dạy học các môn tự chọn được sắp xếp một cách khoa học và dễ dàng sử dụng.

Cá biệt vẫn còn một số giáo viên còn chưa cẩn thận, không khoa học trong việc xây dựng, sử dụng và bảo quản hồ sơ dạy học các môn tự chọn.

Để kiểm tra, đánh giá kết quả học tập các môn tự chọn, giáo viên các trường THPT ở huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng vận dụng chuẩn kiến thức kỹ năng môn học để xác định mục đích, nội dung kiểm tra đánh giá và lựa chọn các phương pháp, hình thức kiểm tra, đánh giá phù hợp. Khi dạy học các môn tự chọn, ở phần nội dung bài học chính khóa, các GV tiến hành kiểm tra theo quy định; ở phần tự bám sát (chủ đề tự chọn) giáo viên đã chủ động trong việc tự tổ chức kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh theo quy định, mỗi môn có thể lấy 01 điểm kiểm tra thường xuyên được lấy điểm từ bài kiểm tra kiến thức tự chọn trong môn học.

Tóm lại, qua kết quả điều tra, khảo sát cho thấy: Năng lực dạy học các môn tự chọn đáp ứng yêu cầu cơ bản của chuẩn nghề nghiệp GV phổ thông. Đảm bảo được kiến thức, nội dung, chương trình theo quy định của Bộ GD&ĐT quy định trong chuẩn kiến thức kỹ năng. Các GV đều ý thức được tầm quan trọng của dạy học các môn tự chọn. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế như, việc lập kế hoạch dạy học các môn tự chọn còn mang tính hình thức; Dạy học tích hợp liên môn trong dạy học các môn tự chọn chưa thật sự được chú trọng; Một số môn tự nhiên như Vật lý, Hóa học còn thiếu hóa chất hoặc thiết bị thí nghiệm bị hỏng nên gây khó khăn cho GV và HS trong quá trình thực hành, làm thí nghiệm; Đa số học sinh là con em dân tộc thiểu số nên có khá nhiều học sinh còn rụt rè, thiếu mạnh dạn và năng động trong quá trình học tập các môn tự chọn. Những hạn chế này có có hưởng ảnh tới năng lực dạy học các môn tự chọn và bồi dưỡng năng lực dạy học các môn tự chọn của GV ở các trường THPT huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng.

2.4. Thực trạng các hoạt động bồi dưỡng năng lực dạy học các môn tự chọn cho đội ngũ giáo viên các trường THPT huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng

Đánh giá thực trạng hoạt động bồi dưỡng năng lực dạy học các môn tự chọn cho đội ngũ giáo viên các trường THPT huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, tác giả sử dụng phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi, kết hợp với tổng kết kinh nghiệm công tác và những nhận định đánh giá khách quan của bản thân tác giả. Số lượng phiếu điều tra được phát là 68 phiếu, trong đó: cán bộ quản lý của các trường là 06, giáo viên thuộc các trường THPT công lập trên địa bàn huyện là 62. Tất cả các phiếu điều tra thu về đều được các đối tượng được hỏi trả lời đầy đủ các nội dung.

Trước khi đánh giá thực trạng hoạt động bồi dưỡng năng lực dạy học các môn tự chọn cho đội ngũ giáo viên các trường THPT huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, tác giả tiến hành khảo sát nhận thức của đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên (68 phiếu) về tầm quan trọng, sự cần thiết của hoạt động bồi dưỡng năng lực dạy học các môn tự chọn cho đội ngũ giáo viên các trường THPT huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, kết quả thu được như sau:

Bảng 2.8. Nhận thức về tầm quan trọng

của hoạt động bồi dưỡng năng lực dạy học các môn tự chọn


Mức độ


Đối tượng

Rất quan

trọng

Quan trọng

Ít quan trọng

Không quan

trọng

SL

tỷ lệ

SL

tỷ lệ

SL

tỷ lệ

SL

tỷ lệ

CBQL, GV

37

54,4

19

27,9

11

16,2

1

1,5

Như vậy, qua kết quả khảo sát tại Bảng 2.2, chúng tôi nhận thấy rằng: Đa số CBQL, GV có nhận thức tương đối đầy đủ về tầm quan trọng của hoạt động bồi dưỡng năng lực dạy học các môn tự chọn. Tuy nhiên, mức độ nhận thức là không giống nhau. Cụ thể, có 82,3% ý kiến cho rằng việc tổ chức hoạt động bồi dưỡng năng lực dạy học các môn có chủ đề tự chọn hiện nay là quan trọng và rất quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục của các nhà trường. Bên cạnh đó, có 16,2% ý kiến còn lại cho rằng tầm quan trọng của hoạt động này ở mức ít quan trọng và có 1,5% ở mức không quan trọng. Chứng tỏ vẫn còn số ít CB, GV chưa nhận thức rõ, đầy đủ về mức độ cần thiết và ảnh hưởng của công tác bồi dưỡng năng lực dạy học

Xem tất cả 120 trang.

Ngày đăng: 21/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí