cụ thể để lãnh đạo phong trào kháng chiến ở Nam Bộ và Campuchia. Các chức vụ chủ chốt do Ban Chấp hành Trung ương chỉ định. Với những qui định về cơ cấu tổ chức, Trung ương Cục được tổ chức có các chức danh Bí thư, Phó Bí thư, nằm trong Ban Chấp hành Trung ương và chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Sự ra đời của Trung ương Cục vừa bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc "một cơ quan Trung ương" thống nhất và vững mạnh trong toàn Đảng vừa cần thiết với hoàn cảnh kháng chiến, tăng cường sự chỉ đạo trực tiếp, sát sao của Ban Chấp hành Trung ương đối với một địa bàn trọng yếu là Nam Bộ cũng như đối với công tác giúp đỡ cuộc kháng chiến của nhân dân Campuchia.
Hiện thực hoạt động, lãnh đạo của Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam cho thấy việc củng cố kiện toàn Xứ ủy cũng như việc thành lập Trung ương Cục miền Nam vào những thời điểm quyết định, do hoàn cảnh kháng chiến đặt ra và đáp ứng yêu cầu phải có một tổ chức Đảng vững mạnh, đủ uy tín và quyền lực lãnh đạo chiến ở Nam Bộ là một chủ trương đúng đắn và sáng tạo của Đảng, tạo nên một đặc điểm trong lịch sử công tác tổ chức, nhất là cơ cấu tổ chức bộ máy cơ quan đầu não Ban Chấp hành Trung ương của Đảng.
3.1.2. Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam được tổ chức và hoạt động sát hợp với đặc điểm địa bàn phụ trách, đạt hiệu quả lãnh đạo cao
Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam nhìn chung được tổ chức phù hợp với đặc điểm của Đảng bộ và yêu cầu kháng chiến ở Nam Bộ.
Trong những năm 1945-1951, cơ cấu của Xứ ủy thể hiện rõ chủ trương xây dựng khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng bộ Nam Bộ vốn tồn tại những vấn đề phân liệt về tổ chức. Xứ ủy chính thức tại Nam Bộ thời điểm thành lập vào tháng 12-1947 lên tới 18 ủy viên, trong đó có 3 ủy viên dự khuyết. Các Xứ uỷ viên được phân công đảm nhiệm những công tác cụ thể trong các địa phương, các lĩnh vực để bảo đảm sự lãnh đạo sâu sát của Xứ ủy. Để tránh sự phân tán như thời kỳ đầu
kháng chiến, Xứ ủy thiết lập cơ chế Thường vụ Xứ ủy để bảo đảm sự lãnh lãnh đạo tập trung, liên tục của Xứ ủy. Trên thực tế, việc tiến hành hội nghị toàn thể Xứ ủy rất khó khăn, Ban Thường vụ Xứ đã đảm trách những nhiệm vụ thuộc thẩm quyền của Xứ ủy, trực tiếp điều hành phong trào kháng chiến. Cơ chế tổ chức và hoạt động này là phù hợp với tình hình kháng chiến cấp bách ở Nam Bộ.
Trung ương Cục miền Nam là một bộ phận của Ban Cấp hành Trung ương, cơ cấu được tổ chức gọn nhẹ, chỉ có từ 5 đến 6 ủy viên Trung ương chính thức và dự khuyết hoạt động ở Nam Bộ do Trung ương chỉ định. Thành phần trên cơ bản được duy trì ổn định cho đến khi kết thúc nhiệm vụ vào năm 1954.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Hiện Nghĩa Vụ Quốc Tế, Giúp Đỡ Nhân Dân Campuchia Kháng
- Lãnh Đạo Đấu Tranh Sau Hiệp Định Giơnevơ, Chuyển Hướng
- Bố Trí Lại Lực Lượng, Chuẩn Bị Chuyển Vào Hoạt Động Bí Mật, Bảo
- Thực Hiện Hiệu Quả Nhiệm Vụ Giúp Đỡ Cuộc Kháng Chiến Của Nhân Dân Campuchia, Góp Phần Xây Dựng Liên Minh Chiến Đấu Của Hai Dân Tộc Chống Kẻ Thù
- Quá trình xây dựng tổ chức và hoạt động của Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục Miền Nam từ năm 1945 đến năm 1954 - 18
- Trong Hoạt Động, Điều Hành Thực Tiện Nhiệm Vụ Chính Trị, Cơ Quan Lãnh Đạo Phải Tuân Thủ Nguyên Tắc Tập Trung Dân Chủ, Song Phải Vận Dụng Linh
Xem toàn bộ 182 trang tài liệu này.
Trên cơ sở đó, các chức vụ chủ chốt Bí thư, Phó Bí thư Trung ương Cục cũng như sự phân công trách nhiệm cụ thể cho từng đồng chí ủy viên (có thời gian được gọi là Trung ủy) do Trung ương Cục quyết định và báo cáo ra Trung ương.
Sau khi thành lập, Trung ương Cục đã xây dựng qui chế làm việc trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ và phù hợp với hoàn cảnh kháng chiến. Theo đó, các đồng chí ủy viên Trung ương Cục miền Nam có sự phân công trách nhiệm rõ ràng, mỗi đồng chí phụ trách một địa bàn hoặc một lĩnh vực cụ thể; đồng thời, luôn có sự phối hợp hoạt động trên cơ sở bám sát nhiệm vụ trọng tâm của cả thời kỳ cũng như của từng thời đoạn cụ thể. Trong hoạt động, Trung ương Cục luôn coi trọng công tác phê bình và tự phê bình, đề cao tinh thần trách nhiệm, ý thức kỷ luật của từng đồng chí, kịp thời sửa chữa những khuyết điểm trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo. Với phương châm hoạt động đó, những đồng chí ủy viên Trung ương Cục đã phát huy tinh thần dám nghĩ, dám làm, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Trung ương Cục qui định cụ thể chế độ làm việc, qui chế chỉ đạo, quan hệ giữa Trung ương Cục với các cấp ủy trực thuộc, như Phân Liên Khu uỷ miền Đông, Phân Liên Khu uỷ miền Tây, các Ban Chấp hành Xí nghiệp ở những cơ quan, đơn vị trực thuộc Trung ương Cục hay cấp Nam Bộ, Ban Cán sự Đảng Cao Miên...; với chính quyền các cấp. Trong các cuộc họp của Trung ương Cục, luôn
có các đồng chí cán bộ chủ chốt của Uỷ ban kháng chiến - hành chính Nam Bộ tham gia. Ngay sau khi Trung ương Cục họp, Uỷ Ban kháng chiến - hành chính sẽ tổ chức hội nghị để triển khai nhiệm vụ. Đặc biệt, trong hoàn cảnh kháng chiến, Trung ương Cục đã hợp nhất Văn Phòng Trung ương Cục với Văn phòng ủy Ban hành chính Nam Bộ, vừa tinh giản được bộ máy trung gian, chuyển mạnh cán bộ về các địa phương để nắm tình hình, vừa thuận tiện cho việc chỉ đạo chính quyền sâu sát, kịp thời, bảo đảm các chủ trương của Trung ương Cục được thực hiện nhanh chóng và thông suốt.
Trung ương Cục thành lập và kiện toàn các bộ phận tham mưu, giúp việc trên cơ sở các ban chuyên môn giúp việc của Xứ uỷ Nam Bộ trước đó, gồm: Văn phòng, Ban Giao thông liên lạc, Ban Tài chính, Ban Kiểm tra, Ban Đảng vụ (sau là Ban Tổ chức), Ban Tuyên huấn, Ban Mặt trận, Ban Hoa vận, Phòng Tổng hợp, Ban Khảo huấn giáo dục, Ban Nông vận. Trung ương Cục xây dựng một qui chế chặt chẽ bảo đảm sự hoạt động của các bộ phận chuyên môn chạy đều, tránh sự chồng chéo.
Với tổ chức bộ máy được cấu tạo hợp lý và có những hiệu chỉnh cho phù hợp với hoàn cảnh, với một cơ chế hoạt động thích hợp với hoàn cảnh kháng chiến, tính năng động, chủ động được đề cao, Trung ương Cục miền Nam hoạt động đạt hiệu quả cao trong lãnh đạo phong trào trên địa bàn được phân công phụ trách.
3.1.3. Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam đã vận dụng đường lối kháng chiến, kiến quốc của Đảng vào thực tiễn với tinh thần chủ động, sáng tạo, đạt nhiều thành tựu
Trong quá trình hoạt động, Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam luôn tuân thủ sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, đồng thời phát huy tính chủ động, sáng tạo và đạt hiệu quả cao, thể hiện trong những vấn đề chính yếu sau đây:
3.1.3.1. Củng cố và gia tăng khối đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh công nông, đoàn kết rộng rãi các đảng phái, tôn giáo nhằm mục tiêu kháng chiến, lãnh đạo thành công cuộc kháng chiến trên địa bàn Nam Bộ
Lãnh đạo phong trào cách mạng trên một địa bàn rộng lớn, bị chia cắt, luôn ở trong tình thế "bị bao vây và phá vây" với sự tồn tại và hoạt động phức tạp của nhiều đảng phái chính trị, các tổ chức tôn giáo..., Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam đã quán triệt và thực hiện thành công tư tưởng chiến lược Đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng, thực hiện thành công đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh sinh của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam, Mặt trận dân tộc thống nhất được củng cố vững chắc, rộng mở; tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được được hiện thực hóa thành khối đoàn kết kháng chiến của nhân dân Nam Bộ. Đảng bộ và nhân dân Nam Bộ đã xây dựng được hệ thống tổ chức Mặt trận dân tộc thống nhất hoàn chỉnh, mạnh mẽ, hoàn thành sứ mệnh tập hợp đông đảo quần chúng trong các những hình thức tổ chức phong phú để tiến hành kháng chiến.
Với chủ trương liên minh các tổ chức chính trị, thực hiện tư tưởng chiến lược đại đoàn kết dân tộc và các việc làm trọng dụng các nhân sĩ, trí thức yêu nước, tôn trọng vai trò, đóng góp của các tôn giáo, Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục đã thu dụng được nhiều nhân sĩ, trí thức lớn, chức sắc tôn giáo, động viên, bố trí họ tham gia kháng chiến. Các đảng phái, tôn giáo như đảng Dân chủ, Công giáo, đạo Cao Đài, đạo Hòa Hảo, Phật giáo đều được Trung ương Cục quan tâm vận động và thu được những kết quả lớn. Đông đảo tín đồ các tôn giáo trên đã ủng hộ hoặc tham gia kháng chiến.
Sau khi Mặt trận Việt Minh và Mặt trận Liên Việt thống nhất thành Mặt trận Liên -Việt, Trung ương Cục miền Nam lãnh đạo đẩy mạnh củng cố các đoàn thể quần chúng nhất là tổ chức Nông hội. Tổ chức Nông hội được củng cố, là chỗ
dựa chính để Trung ương Cục lãnh đạo thực hiện chính sách ruộng đất, tạm cấp ruộng đất cho nhân dân. Nông hội còn phối hợp với bộ phận Canh nông của chính quyền để chăm lo phát triển sản xuất, giúp đỡ và hướng dẫn nông dân.
Hiện thực lịch sử cho thấy, với chính sách đúng đắn, Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam đã củng cố được khối đại đoàn kết toàn dân trên địa bàn Nam Bộ, tăng cường được tiềm lực kháng chiến, đánh bại âm mưu chia rẽ, "dùng người Việt đánh người Việt" của thực dân Pháp.
Trung thành với tư tưởng đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, xác định đúng điểm tương đồng là lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết dân tộc để “tổ chức toàn dân lại thành một lực lượng thật rộng, thật kín” [61, tr.227]; đồng thời từ phong trào thực tiễn mà củng cố tổ chức, xác lập tính thống nhất trong hệ thống Mặt trận là một thành công trong quá trình lãnh đạo xây dựng, củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân to lớn và rộng rãi hướng vào thực hiện đường lối kháng chiến của Đảng dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
3.1.3.2. Xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân vững mạnh, thống nhất
Đặc điểm chung về tổ chức vũ trang Nam Bộ thời gian đầu kháng chiến kém hơn Bắc Bộ và Trung Bộ. Khác với Bắc Bộ và Trung Bộ, tổ chức quân đội đều do Chính phủ và Quân ủy Hội Trung ương trực tiếp tổ chức, trang bị, cấp dưỡng, đào tạo cán bộ nên qui củ và chỉ huy thống nhất, còn tổ chức vũ trang Nam Bộ, sau Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, lực lượng vũ trang Nam Bộ được hình thành từ nhiều nguồn, nhiều thành phần khác nhau ngay từ đầu đã phải hoạt động phân tán, các đơn vị độc lập, tự cấp tự túc về mọi phương diện, kinh nghiệm tác chiến phong phú, bộ đội nhanh trưởng thành từ thực tiễn chiến đấu nhưng về tổ chức và chỉ huy lại gặp rất nhiều khó khăn, sự chỉ huy thống nhất chưa được thực hiện hoàn toàn. Việc thống nhất chỉ huy, thống nhất lãnh đạo, đặt lực lượng vũ tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo hoàn toàn của Đảng, tăng cường vai trò lãnh đạo thống
nhất của Đảng đối với lực lượng vũ trang là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và xuyên suốt cuộc kháng chiến.
Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam lãnh đạo thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, tập trung lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân theo chủ trương chung của Đảng một cách linh hoạt, phù hợp với điều kiện chiến trường Nam Bộ-chiến trường sau lưng địch đặt trong hoàn cảnh kháng chiến của cả nước.
Trong nửa đầu cuộc kháng chiến, Xứ ủy Nam Bộ lãnh đạo các cấp bộ đảng và quân dân Nam Bộ đẩy mạnh chiến tranh du kích..., phân tán bộ đội chủ lực thành các đơn vị độc lập, bám dân, bám cơ sở, dựa vào dân, cùng với các đơn vị vũ trang địa phương đánh giặc, là lực lượng nòng cốt giúp dân phát triển phong trào du kích. Sau một thời gian hoạt động, nhiều đơn vị đã trưởng thành, lớn mạnh cả về quân số và vững vàng về tinh thần, kinh nghiệm chiến đấu. Dân quân du kích hình thành và phát triển mạnh ở cấp xã; bộ đội địa phương được tổ chức và trưởng nhanh chóng ở cấp huyện; bộ đội chủ lực phát triển từ chi đội đến cấp trung đoàn, liên trung đoàn. Sự hình thành và phát triển lực lượng vũ trang nhân dân ở Nam Bộ trong thời gian đầu kháng chiến là kết quả của đường lối kháng chiến đúng đắn của Đảng, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Xứ ủy Nam Bộ, đặt nền tảng vững chắc để xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân trong quá trình kháng chiến ở Nam Bộ. Việc Ủy ban quân sự Nam Bộ được Chính phủ công nhận (với thành phần gồm Trung tướng Nguyễn Bình, Tư lệnh, nguyên là đảng viên Quốc dân Đảng; Phạm Ngọc Thuần-Ủy viên quân sự, nguyên là linh mục Công giáo kháng chiến) đã thể hiện được quan điểm đoàn kết rộng rãi lực lượng kháng chiến của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là một bước tổ chức cần thiết và phù hợp với tình hình Nam Bộ. Bên cạnh đó, Xứ ủy lưu ý nguyên tắc giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng trong lực lượng vũ trang: “Sự đấu tranh mềm dẻo của chúng ta, ta có thể làm thỏa mãn một phần nào cho tầng lớp trí thức địa chủ, nhưng ta phải nắm được quyền lãnh đạo” [16].
Khi Trung ương Cục miền Nam ra đời cũng là lúc phong trào chiến tranh du kích ở Nam Bộ đang gặp rất nhiều khó khăn do những thủ đoạn bình định của địch và cả những khuyết điểm trong chỉ đạo của ta, Trung ương Cục quyết định một loạt vấn đề về tổ chức và xây dựng lực lượng vũ trang: tập trung chỉ đạo xây dựng, bảo vệ các căn cứ, chống lại các cuộc tấn công ngày càng gia tăng của địch; bố trí lại cơ quan chỉ huy quân sự, thành lập Bộ Tư lệnh các Phân Liên khu; đẩy mạnh chiến tranh du kích chống địch càn quét, lấn chiếm, thực hiện khẩu hiệu " giữ người, giữ của, xây dựng người, xây dựng của”, chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang lấy đơn vị đại đội làm căn bản [144; 145]...
Dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam, phong trào chiến tranh du kích trên địa bàn Nam Bộ không ngừng được được đẩy mạnh. Lực lượng vũ trang 3 thứ quân, nhất là bộ đội địa phương được tăng cường. Với phương châm du kích, giành lại thế chủ động cho từng tỉnh, quân và dân Nam Bộ đã tiến hành chống địch càn quét, bảo vệ các khu căn cứ; luồn sâu vào địch hậu, tiêu diệt sinh lực địch. Đồng thời với tiến công quân sự, Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam chỉ đạo đẩy mạnh công tác địch vận, ngụy vận, công tác Cao Đài vận, Hoà Hoả vận...phá tan âm mưu địch “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt’’, chia rẽ lương và giáo, phá hoại khối đoàn kết các tôn giáo và dân tộc.
Trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, nhất là trong khi chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra, Trung ương Cục miền Nam đã lãnh đạo các lực lượng vũ trang Nam Bộ thực hiện phương châm hoạt động chủ động, sáng tạo, nhạy bén, tuỳ theo tình hình thực tế địa phương tiến hành các đợt tiến công ngắn ngày, dài ngày, dựa chắc trên cơ sở phát huy tối đa sức mạnh phối hợp hoạt động của cả 3 thứ quân, thực hiện phối hợp đánh địch đồng thời cả về quân sự, chính trị và địch nguỵ vận. Trong đợt hoạt động này, tại các vùng du kích và vùng tạm chiếm, lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ đã tổ chức 2113 trận chiến đấu. Ở miền Tây Nam Bộ, chỉ trong vài tháng đẩy mạnh phối hợp với
chiến trường chính, đã có hơn 60 xã vùng tạm chiếm chuyển thành vùng du kích. Trên chiến trường Campuchia, quân tình nguyện Việt Nam cùng quân và dân Campuchia đánh nhiều trận tiêu hao tiêu diệt sinh lực địch và phá huỷ nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh của chúng.
Có thể nói, trên cơ sở xác định chiến tranh du kích làm chủ yếu, Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam đã đạt được thành tựu to lớn trong lãnh đạo quân và dân Nam Bộ xây dựng lực lượng vũ trang 3 thứ quân và tiến hành tác chiến tiêu hao, tiêu diệt, kìm chân sinh lực địch, góp phần vào thắng lợi chung của quân dân cả nước.
Gắn liền với quá trình xây dựng lực lượng vũ trang, một nét đặc sắc và thành công của Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam trong lãnh đạo kháng chiến là sự hình thành mạng lưới căn cứ địa khắp các địa phương, phát triển thành những chiến khu, vùng căn cứ kháng chiến an toàn vững chắc và rộng lớn như Khu căn cứ Xứ ủy Nam Bộ ở Đồng Tháp Mười, Khu căn cứ Trung ương Cục miền Nam ở U Minh,...Hệ thống căn cứ địa có vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc kháng chiến lâu dài của nhân dân Nam Bộ: là nơi đứng chân, xây dựng lực lượng mọi mặt cho cuộc kháng chiến, nơi các lực lượng vũ trang cách mạng xuất phát tiến công địch, là cơ sở để hình thành hình thái ba vùng kháng chiến sau này; bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng sâu rộng, định hướng, chỉ dẫn phong trào chiến chiến toàn dân, toàn diện của nhân dân Nam Bộ đi đến thành công.
3.1.3.3. Thực hiện sáng tạo, linh hoạt chính sách ruộng đất của Đảng ở Nam Bộ, vừa bảo đảm yêu cầu kháng chiến vừa giữ vững khối đại đoàn kết dân tộc.
Xuất phát từ nghiên cứu kỹ chính sách ruộng đất của Đảng, am hiểu sâu sắc tình hình Nam Bộ, Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam có những sáng tạo lớn, đầy bản lĩnh chính trị trong quá trình lãnh đạo thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng.