gian cho nông dân, chủ yếu là triệt để giảm tô, nhằm thoả mãn yêu cầu chính đáng về kinh tế của nông dân”. “Công tác phát động quần chúng năm nay là một bước cần thiết để thiết thực cải cách ruộng đất”[68, tr.129].
Sau một thời gian ngắn quán triệt chủ trương của Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng xuống các địa phương Nam Bộ, phát hiện thấy nếu áp dụng ngay chủ trương phóng tay phát động quần chúng, xóa bỏ sở hữu ruộng đất của địa chủ, có thể gây bất lợi cho phong trào kháng chiến, gây ảnh hưởng tiêu cực chính sách đoàn kết dân tộc, Trung ương Cục miền Nam kịp thời ban hành Chỉ thị tạm ngừng phát động quần chúng. Trung ương Cục giao nhiệm vụ cho Ban Nông vận Trung ương Cục miền Nam tổ chức tổng điều tra lại tình hình ruộng đất, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của các giai cấp, tầng lớp ở nông thôn Nam Bộ, chuẩn bị chu đáo trước khi phát động quần chúng [147]. Từ kết quả điều tra tình hình thực tế ở Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam nhận định, Nam Bộ chưa đủ điều kiện để phát động quần chúng. Ngày 5 - 2 -1954, Trung ương Cục miền Nam ban hành Chỉ thị về thi hành chính sách "thẳng tay phát động quần chúng" của Đảng ở Nam Bộ, trong đó nêu rõ: "Nam Bộ cũng như toàn quốc, nhất định phải thi hành phát động quần chúng thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng, nhưng hiện nay tình hình chiến trường Nam Bộ chưa đủ điều kiện để phát động"[69, tr.467]. Với tinh thần trách nhiệm cao trước Đảng, trước nhân dân, Trung ương Cục miền Nam chỉ thị: "những nơi nào đã phát động hoặc rục rịch phát động phải cương quyết đình chỉ ngay và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Đảng"[69, tr.469]. Trung ương Cục chủ trương: Chính sách ruộng đất của Đảng thực hiện ở Nam Bộ chủ yếu vẫn là giảm tô; đối với đất vắng chủ, trong vùng căn cứ địa du kích không tuyên bố tạm giao cho nhưng thực hiện khẩu hiệu "ai cày người ấy hưởng " và đóng thuế nông nghiệp.
Chủ trương thực hiện chính sách ruộng đất phải gắn liền với củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, gắn với kiện toàn tổ chức Nông hội của Trung ương Cục đã làm nảy sinh nhiều sáng tạo trong các địa phương. Tỉnh Gia Định Ninh lập ra một bộ máy chuyên lo tạm cấp đất. Tỉnh Mỹ Tho có sáng kiến nắm Tiểu tổ nông hội
vùng du kích, giao trách nhiệm điều tra đất và người trong phạm vi tiểu tổ, đưa lên Hội đồng tạm cấp chuẩn y, sau đó có trách nhiệm trực tiếp điều hành cụ thể đến từng hộ gia đình. Tỉnh Thủ Biên có sáng kiến điều tra, cấp từng khoảnh nhỏ trong vùng du kích gần vùng tạm bị chiếm, vừa bảo đảm được thời gian, vừa bảo đảm an toàn trong điều kiện địch thường xuyên đánh chiếm. Trong Phân Liên khu miền Tây, các Đảng bộ kiên quyết tịch thu ruộng đất của địa chủ phản động, điền chủ Pháp chia cho nông dân thiếu đất hoặc không có ruộng đất; giao cho nông dân tiếp tục canh tác trên những diện tích ruộng đất vắng chủ, đồng thời dựa vào tinh thần đoàn kết của nông dân, vận động "địa chủ khai minh hiến điền".
Kết quả đạt được từ việc thực hiện chính sách ruộng đất đúng đắn vừa mang lại lợi ích cho nông dân Nam Bộ, vừa bảo đảm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân. Tính đến 1954, Nam Bộ cơ bản đã thực hiện đúng chính sách giảm tô 25%. Về ruộng đất, Nam Bộ tạm cấp, tạm giao 564.547 ha cho 527.163 gia đình nông dân lao động. Ngoài ra, nông dân còn sử dụng một số đáng kể diện tích ruộng đất của Việt gian, địa chủ vắng mặt và đất vỡ hoang. Kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược, nông dân miền Nam đã làm chủ được
150.000 ha ruộng đất, bằng 1/2 diện tích đất toàn miền [215].
Việc thực hiện chính sách giảm tô và tạm cấp, tạm giao ruộng đất đã thúc đẩy nông dân hăng hái tham gia sản xuất, tích cực đóng góp lương thực, động viên con em tòng quân, phát triển bộ đội để đánh thắng xâm lược. Đời sống nông dân Nam Bộ được cải thiện đáng kể.
Trong thời gian chỉ đạo quân và dân Nam Bộ thực hiện chủ trương phối hợp với chiến trường chính, Trung ương Cục miền Nam tăng cường phối hợp và giúp đỡ phong trào kháng chiến của nhân dân Campuchia.
Có thể bạn quan tâm!
- Lãnh Đạo Thực Hiện Các Nhiệm Vụ Quân Sự, Phát Triển Thế Chủ Động Chiến Lược
- Lãnh Đạo Phát Triển Nền Kinh Tế Kháng Chiến, Tăng Cường Khối Đại Đoàn Kết Dân Tộc
- Thực Hiện Nghĩa Vụ Quốc Tế, Giúp Đỡ Nhân Dân Campuchia Kháng
- Bố Trí Lại Lực Lượng, Chuẩn Bị Chuyển Vào Hoạt Động Bí Mật, Bảo
- Xứ Ủy Nam Bộ, Trung Ương Cục Miền Nam Được Tổ Chức Và Hoạt Động Sát Hợp Với Đặc Điểm Địa Bàn Phụ Trách, Đạt Hiệu Quả Lãnh Đạo Cao
- Thực Hiện Hiệu Quả Nhiệm Vụ Giúp Đỡ Cuộc Kháng Chiến Của Nhân Dân Campuchia, Góp Phần Xây Dựng Liên Minh Chiến Đấu Của Hai Dân Tộc Chống Kẻ Thù
Xem toàn bộ 182 trang tài liệu này.
Trung ương Cục miền Nam lãnh đạo Ban Cán sự Đảng Cao Miên và lực lượng vũ trang trên địa bàn Campuchia đẩy mạnh các hoạt động quân sự phối hợp trong chiến dịch Đông Xuân 1953-1954, góp phần tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng được nhiều vùng tạm bị chiếm và xây dựng thành vùng du kích. Lực lượng
giải phóng quân Campuchia tiêu diệt Vocun-Sai, bức rút Seam-pang, nối liền căn
cứ Đông Bắc Campuchia với Hạ Lào và Tây Nguyên Việt Nam.
Đặc biệt là từ tháng 3 năm 1954, thực hiện chủ trương đẩy mạnh hoạt động quân sự phối hợp với Điện Biên Phủ, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Cục miền Nam và sự chỉ đạo trực tiếp của tổ chức của Đảng ở Campuchia, quân tình nguyện Việt Nam cùng quân và dân Campuchia đã đánh nhiều trận tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch và phá huỷ nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh của chúng.
Cũng trong thời gian này, Trung ương Cục đã kịp thời chỉ đạo giải quyết một số vấn đề nảy sinh trong quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và Campuchia tại khu vực biên giới Tây Nam. Nguyên nhân là do cán bộ ở địa phương, cơ sở còn yếu kém về quản lý kinh tế, thiếu nhạy bén về chính trị đã không xử lý kịp thời, dẫn đến mắc sai lầm trong giải quyết những bất đồng tồn đọng về hoạt động trao đổi, buôn bán hàng hoá qua lại giữa một bộ phận cư dân người Việt và Khơme dọc hai bên biên giới. Địch lợi dụng những biểu hiện đó, kích động gây chia rẽ, xúi giục một số người dân Khmer bên đất bạn giết hại người Việt.
Nhận thấy nếu để kéo dài tình trạng này, sẽ gây bất lợi đến cuộc tiến công chiến lược của nhân dân ta, đến công tác đàm phán của ta tại Giơnevơ, Trung ương Cục miền Nam đã kịp thời chỉ thị cho Phân Liên khu uỷ miền Tây, trực tiếp là Tỉnh ủy Long Châu Hà tiến hành kiểm điểm ngay, giải quyết dứt điểm và nhanh chóng khắc phục hậu quả, ổn định tình hình, công tác biên giới. Trung ương Cục miền Nam yêu cầu cấp ủy địa phương có liên quan thực hiện nhất quán quan điểm chỉ đạo của Trung ương Cục miền Nam, là: "Đoàn kết với bạn để đưa phong trào cách mạng, hoạt động kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược trong khu vực phát triển đi lên cùng với phong trào kháng chiến chung, vừa phá tan âm mưu khép kín biên giới của Pháp vừa tạo sự phối hợp để hình thành một chiến trường chung giữa hai bên" [1]. Thực hiện Chỉ thị của Trung ương Cục miền Nam, Tỉnh ủy Long Châu Hà mở một cuộc kiểm thảo lớn, đánh giá lại một cách toàn diện sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, nhận rõ những mặt hạn chế, khuyết
điểm trong lãnh đạo của Đảng bộ và đề ra một số biện pháp tích cực khắc phục
tình trạng này, đồng thời củng cố các chi bộ biên giới.
Giữa năm 1954, Trung ương Cục tổ chức Hội nghị của Trung ương Cục miền Nam với Ban cán sự toàn Miên, tổng kết tình hình và những hoạt động lãnh đạo giúp đỡ cách mạng ở Campuchia, xác định 7 nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian trước mắt: Giữ vững, đẩy mạnh chiến tranh du kích, chống và phá càn lấn, mở rộng vùng du kích và căn cứ du kích; Tăng cường công tác địch vận chống bắt lính nhằm phá âm mưu của địch “lấy Miên giết Miên, lấy Miên giết Việt, Lào”; cải thiện và bồi dưỡng sức dân về mặt kinh tế, văn hoá; giáo dục và bồi dưỡng cán bộ Miên, củng cố Đảng; phát triển, củng cố mặt trận đoàn kết dân tộc và khối nhân dân liên minh Miên - Việt - Lào, tổ chức Hội Nông dân cứu quốc ở khum; Củng cố chính quyền các cấp; Tăng cường công tác vùng tạm chiếm [200].
Những nhiệm vụ được xác định trên đã thể hiện rõ vai trò và sự giúp đỡ hiệu quả của Trung ương Cục đối với phong trào cách mạng của nhân Cao Miên cũng như đối với việc tăng cường đoàn kết Việt Nam –Campuchia trong bối cảnh Đảng Cộng sản Đông Dương đã "biến hóa", phát triển thành 3 đảng của 3 dân tộc.
2.2.2. Lãnh đạo đấu tranh sau Hiệp định Giơnevơ, chuyển hướng
phong trào cách mạng Nam Bộ (từ tháng 7 đến cuối năm 1954)
2.2.2.1. Lãnh đạo công tác chuyển quân, tập kết
Những thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam và nhân dân hai nước Lào, Campuchia trong 9 năm kháng chiến, đặc biệt là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ (21- 7- 1954) về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương, tôn trọng nên độc lập, tự do, toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân 3 nước. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, tuân thủ những qui định của Hiệp định Giơnevơ, Đảng tiến hành lãnh đạo chuyển quân, tập kết lực lượng vũ trang cách mạng ra miền Bắc.
Lãnh đạo chuẩn bị và tiến hành chuyển quân tập kết là một trong những công tác trọng tâm lớn, đòi hỏi sự nỗ lực cao nhất của Trung ương Cục miền Nam và các cấp uỷ Đảng ở Nam Bộ. Tiến hành trong hoàn cảnh hết sức phức tạp, Trung ương
Cục miền Nam ban hành một số chỉ thị chỉ đạo các cấp uỷ lãnh đạo chặt chẽ, triệt để giữ bí mật những vấn đề liên quan đến kế hoạch chuyển quân tập kết, tuyệt đối giữ bí mật danh sách cán bộ, đảng viên ra Bắc hay ở lại miền Nam, nhằm đảm bảo cho thành công của công tác chuyển quân đồng thời đảm bảo an toàn cho cán bộ đảng viên hoạt động sau này.
Đối với các đồng chí tự nguyện ở lại địa phương công tác, Trung ương Cục miền Nam đồng ý và chỉ thị cho các tỉnh Vĩnh Trà, Bến Tre, khu vực tập kết Cà Mau sắp xếp tạo điều kiện để cán bộ ở lại có thể bám sát dân, hoạt động trong hoàn cảnh đấu tranh chính trị sắp tới.
Thực hiện Hiệp định đình chiến, lực lượng vũ trang của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chuyển về khu vực tập kết tại Hàm Tân, Cà Mau, Đồng Tháp, chuẩn bị chuyển quân ra Bắc.
Trong khi thi hành chủ trương tập kết của Đảng, nhiều cấp uỷ Đảng đã buông lơi lãnh đạo, xuất hiện tư tưởng sai lầm như cho rằng việc đi tập kết là “để chạy giặc, để hưởng lợi lộc cá nhân” [183;184]. Những sai lầm đó đã gây những ảnh hưởng đến các tổ chức cơ sở xã, huyện. Ở Long Châu Hà, nhiều xã có tới 50 cán bộ đi tập kết. Nhiều cán bộ các tỉnh vùng du kích tạm bị chiếm tản cư ở vùng căn cứ Bạc Liêu đòi đi tập kết. Có hiện tượng cán bộ bán nhà cửa, ruộng vườn để đưa gia đình ra Bắc,... Ở các địa phương, việc bàn tán, đồn đại tên những cán bộ đi, ở và những việc liên quan đến kế hoạch chuyển quân diễn ra phổ biến, có nguy cơ làm lộ bí mật, trong khi địch đã tung nhiều gián điệp vào vùng tập kết, điều tra số cán bộ ở lại, nhằm tiêu diệt, phá hoại tổ chức Đảng sau này.
Trước tình hình đó, trong tháng 5 đến tháng 9 -1954, Trung ương Cục ra nhiều chỉ thị chấn chỉnh những sai lầm của các cấp uỷ địa phương. Đồng thời, Trung ương Cục nhắc nhở các tỉnh uỷ kiên quyết nắm vững và thi hành các công tác trọng tâm, trong đó, nhiệm vụ trước hết là thực hiện chuyển hướng về tổ chức. Trung ương Cục yêu cầu các tỉnh uỷ:
Củng cố các chi uỷ bí mật, chi uỷ nắm vững các tiểu tổ nòng cốt của
chi bộ Đảng ở cơ sở, chú trọng các đảng viên thành phần bần, cố,
trung nông để làm rường cột đấu tranh. Tỉnh uỷ viên tạm thời đi xuống huyện giúp đỡ các huyện uỷ. Nắm vững các tiểu tổ nòng cốt trong các tổ chức quần chúng của Đảng ở xã làm trung tâm cho công tác tổ chức. Về hình thức tổ chức: biến các tổ chức quần chúng của ta thành những hình thức tổ chức biến tướng được hoạt động công khai hợp pháp và bán hợp pháp [189].
Tiếp đó, ngày 23-10-1954, Trung ương Cục miền Nam ra Nghị quyết số 13/NQ-TWC, Nghị quyết Tổ chức Đảng uỷ chuyển quân và tổ chức Đảng trong các lực lượng Dân Chính Đảng nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; quán triệt cán bộ đảng viên nhận thức rõ cuộc chuyển quân ra Bắc là một cuộc chuyển quân qui mô, khó khăn, phức tạp, nhận rõ trách nhiệm và quyết tâm hoàn thành thắng lợi việc chuyển quân tập kết. Tại khu vực chuyển quân 200 ngày Cà Mau, sau khi xem xét kỹ về đạo đức và năng lực công tác của cán bộ, Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị quyết định tổ chức Đảng uỷ chuyển quân khu vực Cà Mau. Tổ chức này có nhiệm vụ lãnh đạo cuộc chuyển quân của toàn khu vực Cà Mau ra Bắc và chịu trách nhiệm trực tiếp trước Trung ương Cục miền Nam. Thành phần Đảng uỷ gồm đồng chí: Dương Quốc Chính, Phó Bí thư, Tư lệnh Phân Liên khu miền Tây; các đồng chí Nguyễn Chánh và Bùi Văn Dự, uỷ viên Ban tập kết Quân Dân Chính Phân Liên khu miền Tây [211].
Tổ chức Đảng uỷ chuyển quân tỉnh đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng uỷ chuyển quân Khu, chịu trách nhiệm lãnh đạo chuyển quân trong phạm vi tỉnh. Thành phần của Đảng uỷ chuyển quân tỉnh gồm có Trung đoàn uỷ và 1 đồng chí trong lực lượng Dân Chính Đảng tập kết theo trung đoàn. Nhân sự cụ thể của Đảng uỷ sẽ do các tỉnh đề nghị, Đảng uỷ Khu đồng ý và phải được Trung ương Cục miền Nam duyệt y.
Trung ương Cục miền Nam qui định rõ phạm vi trách nhiệm của các tổ chức Đảng uỷ chuyển quân: Chỉ chịu trách nhiệm lãnh đạo về mặt chuyển quân, còn việc xây dựng lực lượng hoàn toàn thuộc về Quân khu uỷ và Bộ Tư lệnh, các Quân đoàn uỷ và Ban chỉ huy trung đoàn. Tất cả các lực lượng Quân Dân Chính sau khi
biên chế thành đơn vị và các đồng chí trong đại đội được tổ chức thành 1 chi bộ; nếu có nhiều chi bộ thì có Liên chi lãnh đạo chung.
Những chỉ đạo chặt chẽ của Trung ương Cục đã góp phần làm cho công tác chuyển quân tập kết diễn ra thành công.
2.2.2.2. Đấu tranh đòi địch thi hành Hiệp định Giơnevơ, bảo vệ nhân dân
Sau khi Hội nghị Giơnevơ về vấn đề đình chiến ở Việt Nam, Lào và Campuchia, lập lại hoà bình ở Đông Dương được ký kết, ngày 6- 9-1954, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Nghị quyết Về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng. Nghị quyết chỉ rõ nhiệm vụ của Đảng ở miền Nam trong giai đoạn hiện tại là:
Lãnh đạo nhân dân miền Nam đấu tranh thực hiện Hiệp định đình chiến, củng cố hoà bình, thực hiện tự do dân chủ.... cải thiện dân sinh, thực hiện thống nhất và tranh thủ độc lập. Đồng thời phải lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống những hành động khủng bố, đàn áp phá cơ sở của ta và quần chúng cách mạng, chống những hành động tiến công của địch, nguỵ, giữ lấy quyền lợi quần chúng đã giành được trong thời kỳ kháng chiến, nhất là ở những vùng căn cứ địa và cùng du kích cũ của ta [69, tr.287].
Khẩu hiệu đấu tranh của miền Nam là “Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ”; thực hiện chính sách Mặt trận thống nhất rộng rãi để mở rộng ảnh hưởng, tranh thủ sự ủng hộ, đồng tình rộng lớn cả trong nước và quốc tế.
Ngày 6 - 10 - 1954, Ban Bí thư Điện gửi Trung ương Cục miền Nam nhận định về tình hình và chủ trương công tác mới ở Nam Bộ, nêu rõ mâu thuẫn Pháp- Mỹ, xung đột giữa các tập đoàn tay sai thân Pháp, thân Mỹ, Trung ương Cục miền Nam phải có sách lược lợi dụng mâu thuẫn của địch, vận động thành lập một chính phủ ít thân Mỹ, tập trung đấu tranh chống Mỹ, đánh đổ Chính phủ Ngô Đình Diệm.
Hai tháng sau, trong Điện gửi Trung ương Cục miền Nam ngày 6-12-1954, (trả lời Điện của Trung ương cục miền Nam về một số vấn đề phân hoá, xác định kẻ
thù ở Nam Bộ, ngày 18 -11), Ban Bí thư nhấn mạnh: Trong tuyên truyền, nêu khẩu hiệu “Chống đế quốc Mỹ, những phần tử thân Pháp phá hoại Hiệp định đình chiến và bè lũ tay sai của chúng”, song cần thu hẹp diện đả kích, chĩa mũi nhọn đấu tranh vào đế quốc Mỹ để tranh thủ phân hoá kẻ thù, khơi thêm mâu thuẫn địch đồng thời tạo thuận lợi tranh thủ quan hệ kinh tế, văn hoá và ngoại giao với nước Pháp...
Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, theo nguyện vọng của đồng chí Lê Duẩn và được sự đồng ý của Trung ương Đảng, Lê Duẩn ngay lập tức trở vào Nam Bộ. Cuối tháng 6-1954, Đồng chí cùng đoàn cán bộ Nam Bộ từ Chiến khu Việt Bắc vào đến Chiến khu Đ (miền Đông Nam Bộ), chuyển lời thăm hỏi ân cần của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tới quân dân Nam Bộ. Đồng chí chỉ thị cho quân và dân Nam Bộ tiếp tục thực hiện nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới.
Tại Nam Bộ, phát huy tinh thần bám sát thực tiễn, chủ động, linh hoạt trong lãnh đạo đấu tranh, 6 ngày sau khi Hiệp định đình chiến và lập lại hoà bình ở Việt Nam và Đông Dương được ký kết, Trung ương Cục miền Nam đã ban hành Chỉ thị số 1/CT-GN về Tuyên truyền, giải thích và vận động nhân dân, cán bộ, quân đội phấn khởi chào mừng thắng lợi vĩ đại Giơnevơ và cương quyết phấn đấu để bảo đảm thực hiện các hiệp định đình chiến. Chỉ thị yêu cầu các cấp uỷ "mau lẹ, khẩn cấp và hỏa tốc" tuyên truyền trong nhân dân, trong bộ đội theo đúng tinh thần chỉ đạo của Trung ương Đảng nhằm mục đích làm cho toàn Đảng, quân đội và nhân dân thống nhất nhận định và hành động trước tình hình mới, gây không khí phấn khởi tin tưởng và đẩy mạnh các hoạt động đấu tranh thi hành Hiệp định [174].
Công tác tư tưởng cũng là một vấn đề khó khăn của Nam Bộ trong thời điểm này. Trung ương Cục miền Nam chỉ đạo các cấp ủy Đảng chú ý tuyên truyền, giải thích cho cán bộ, đảng viên, nhân dân thông suốt lập trường tư tưởng về việc chọn vĩ tuyến 17 làm ranh giới tạm thời, lập trường của ta trước sau như một là kiên quyết đấu tranh để tiến tới thống nhất đất nước. Bên cạnh đó, hết sức chú ý chống các tư tưởng sai lầm như lạc quan quá mức, dẫn đến thiếu cảnh giác âm mưu địch,