Quá trình vận động tới sự điển phạm hóa của văn học nhà nho ở Việt Nam từ Trần Nhân Tông qua Nguyễn Trãi đến Lê Thánh Tông - 2

rạng vẻ văn chương). Chính vì vậy, chúng tôi lựa chọn Nguyễn Trãi như trường hợp của giai đoạn văn học nhà Nho đã định hình.

Lê Thánh Tông chính là giai đoạn điển phạm của văn học nhà Nho, là trường hợp mà những quy phạm, những chuẩn mực của bộ phận văn học này đã được xác lập và được coi là khuôn mẫu để các nhà Nho noi theo. Lê Thánh Tông là một vị hoàng đế Nho gia nổi tiếng, là người đưa Nho giáo lên địa vị độc tôn. Ông đã xây dựng được một triều đại thịnh trị bậc nhất trong lịch sử trung đại theo mô hình Nho giáo. Việc chỉ ra được vị trí các sáng tác văn chương của ba tác giả này trong quá trình vận động và phát triển của văn học nhà Nho ở Việt Nam sẽ làm sáng rõ những vấn đề không chỉ của bản thân văn học nhà Nho mà cả của văn học Thiền và nhiều vấn đề liên quan đến lịch sử dân tộc. Ngay đương thời, thơ ông đã trở thành điển phạm cho các triều thần họa theo. Thân Nhân Trung từng bình thơ nhà vua rằng: “Đó là tấm gương tốt đẹp đã phát ra một cách tự nhiên, không cần mượn sự đẽo gọt mà trăm sự xảo diệu vẫn lộ rõ. Bọn thần thường vẫn cố gắng làm theo phương pháp ấy, mà rút cục vạn phần dường như không làm nổi một” [165, tr. 284]. Đào Cử viết lời bạt Quỳnh uyển cửu ca có đoạn: “Nghĩa lý cao xa, từ khí hùng hồn. Cái tình khích lệ chưa chan ở lời nói. Thực là lời văn dạy đời của bậc đế vương chân chính. Hoàng đế lại đặc biệt ban thưởng, chọn ra 28 bề tôi gần gũi cho họa vần, lấy tượng 28 ngôi sao trên bầu trời, và tượng 28 vị công thần treo ở Vân Đài đời Hán, tổng cộng được 200 bài, dâng lên vua xem, rồi cho vựng tập thành sách, đặt tên là tập “Quỳnh uyển cửu ca”…. So với bài Cửu công, Quyển a của nhà Ngu, nhà Chu thật như cùng một lối. Giúp cho thế nước vững bền, hoàng đồ củng cố, giữ cho được thịnh trị mãi mãi, tốt đẹp đến vô cùng, chẳng phải là do từ đấy mà ra sao?” [165, tr. 324-325]. Vũ Quỳnh cho rằng: “Văn thơ thì hay hơn cả các quan văn học” [110, tr. 712]. Hà Nhậm Đại cũng tán đồng: “Về sáng tác thơ văn thì trội hơn hẳn các vị bề tôi văn chương thời đó” [110, tr. 716]. Sau này, Lê Quý Đôn nhận định về Lam Sơn lương thủy là: “tuy ít dùng chữ lạ lùng hiểm hóc, nhưng khí cốt hào mại cao siêu, lời văn bay bướm sinh động, không kém gì cổ nhân” [110, tr. 722]. Phan Huy Chú trong phần Văn tịch chí của bộ Lịch triều hiến chương loại chí sau này trích tuyển rất nhiều thơ ông và đưa ra nhận xét: “Lời phóng khoáng, câu xinh đẹp, so với tác phẩm của các đế vương từ xưa chưa ai có thể theo kịp” [15, tr. 443]. Giai đoạn này

được các nhà Nho xưa coi là mẫu mực khuôn thước về văn chương. Phạm Đình Hổ khi nhận xét về một bản dịch đã viết rằng: “Một ngày kia bản dịch này trở thành rực rỡ huy hoàng, khuôn theo được thơ thời Thiệu Bình và Quang Thuận… ” [54, tr. 35]. Bùi Huy Bích bình thơ ca các triều đại cho rằng: “Nước Việt ta từ nhà Trần đến buổi quốc sơ, thì khí thơ có chút hồn hậu, đến đời Hồng Đức thì thơ thanh tao, xinh đẹp, về sau dần dần yếu ớt, đến thời Trung Hưng thì thật thà vụng về, từ thời Vĩnh Thịnh, Thái Bảo về sau, lại trôi chảy dễ nghe, gần đây lại hay chuộng khí phách” [15, tr. 489]. Đến thế kỷ XIX, một ông vua cực kỳ Nho giáo là Minh Mệnh cũng nhiều lần ngưỡng vọng về thời đại văn chương Hồng Đức. Do vậy, chúng tôi cho rằng Lê Thánh Tông là trường hợp tiêu biểu của giai đoạn văn học nhà Nho xác lập điển phạm.

Xem xét các trường hợp tác giả để khảo sát trong đó chỉ có Nguyễn Trãi là nhà Nho, Trần Nhân Tông và Lê Thánh Tông là hai vị hoàng đế, chúng tôi đã dựa trên tiêu chí của “văn học có thuộc tính nhà Nho” chứ không phải “văn học do nhà Nho sáng tác”. Đây ba tác gia quan trọng, tập trung những vấn đề lớn của văn học trung đại ở các giai đoạn cuối thế kỷ XIII, nửa đầu và nửa cuối thế kỷ XV, có ý nghĩa như những dấu mốc trong quá trình phát triển của văn học nhà Nho ở Việt Nam.

Từ những lý do kể trên, chúng tôi lựa chọn đề tài Quá trình vận động tới sự điển phạm hóa của văn học nhà Nho ở Việt Nam từ Trần Nhân Tông qua Nguyễn Trãi đến Lê Thánh Tông cho luận án của mình nhằm giải quyết một số vấn đề mang tính lý thuyết của lịch sử văn học giai đoạn này.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Nếu không kể đến những quan niệm, nhận định, đánh giá và những công trình sưu tầm, ghi chép của “những người trong cuộc” từ thế kỷ XIX trở về trước thì văn học nhà Nho đã được nghiên cứu từ rất sớm. Trong Việt Nam văn học sử yếu

[30] của Dương Quảng Hàm- công trình văn học sử bằng chữ quốc ngữ đầu tiên của thời hiện đại (1943), sau “Văn chương bình dân”, tác giả đã bắt đầu phần văn học thành văn bằng nhiều chương viết về ảnh hưởng của văn chương Tàu, về Tứ thư, Kinh thi... rồi mới đến một chương duy nhất về sự truyền bá Phật giáo và Đạo giáo, sau đó quay trở lại các vấn đề khoa cử, học thi, nhà Nho... Có thể thấy là tác giả đã

nhận diện ảnh hưởng của Nho giáo và Phật, Đạo ở Việt Nam với các mức độ khác nhau. Tuy không chia thành các dòng với các đặc trưng riêng, nhưng Dương Quảng Hàm đã có sự phân biệt đầu tiên đối với hai dòng văn chương Thiền sư và nhà Nho: “Xét Hán học nước ta trong hai triều Lý, Trần, ta thấy lúc đầu hai phái Nho học và Phật học đều ngang nhau mà tiến hành, rồi sau Phật giáo bị các nhà nho công kích phải thoái bộ dần mà nhường chỗ cho Nho giáo. Trong việc trứ tác, các vị thiền sư cũng chiếm một địa vị quan trọng. Còn các nhà Nho thì phần nhiều đều có công nghiệp với xã hội và có phẩm cách thanh cao; trong thơ văn thường trọng đạo lý hơn là từ chương, chưa nhiễm phải cái thói chuộng hư văn vậy” [30, tr. 238].

Ở miền Nam giai đoạn 1945-1974, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên của Phạm Thế Ngũ (1961) chia lịch sử văn học theo ngôn ngữ Hán, Nôm và Quốc ngữ. Cách tư duy này tương ứng với quan niệm của luận án về các giai đoạn điển phạm hóa của văn học Việt Nam mặc dù chúng tôi cũng đồng ý với Thanh Lãng rằng đây không phải phương pháp tối ưu để phân chia một nền văn học. Phần văn học nhà Nho từ cuối thế kỷ XIII đến hết thế kỷ XV mà luận án quan tâm sẽ phải tìm hiểu ở cả hai phần chữ Hán và chữ Nôm. Phạm Thế Ngũ đã soi chiếu văn học trung đại từ sự ảnh hưởng của Nho, Phật, Đạo. Ông trình bày ngắn gọn nhưng rất rành mạch các giai đoạn “đạo Phật toàn thịnh” thời Bắc thuộc, Đinh, Lê, Lý sang “Tam giáo tịnh lập” đời Trần và “Nho học độc tôn” ở đời Lê. Ngoài vài dòng dành cho thơ Thiền và không khí hùng tráng của thơ đời Trần thì tác giả mặc định lịch sử văn học Việt Nam là của của các nhà Nho. Công trình này đã có những nhận xét xác đáng tuy mới sơ lược về văn học chữ Hán các giai đoạn. Ví dụ như thời Hồng Đức: “Vậy một khuynh hướng chủ yếu trong những sáng tác của các Tao Đàn Hồng Đức là khuynh hướng giáo huấn hay đạo lý. Ý thơ biểu dương phép trị nước yên dân cùng luân lý chính trị trong kinh sách của đạo Nho mà đời Hồng Đức bắt đầu nhiễm ảnh hưởng sâu xa” [98, tr. 141]. Nhìn chung, tuy phần viết về văn học chữ Hán và Nôm giai đoạn từ cuối thế kỷ XIII đến hết thế kỷ XV tuy dung lượng không nhiều nhưng chúng tôi đánh giá rất cao những đóng góp của Phạm Thế Ngũ trong việc nhìn nhận và phân tích những ảnh hưởng của Nho giáo tới nền văn học trung đại trong từng giai đoạn. Luận án của chúng tôi đã thừa hưởng được một số luận điểm quan trọng từ công trình này.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 230 trang tài liệu này.

Bảng lược đồ văn học [71] của Thanh Lãng cho rằng văn học Việt Nam từ thế kỷ XIII1 cho đến giữa thế kỷ XIX đều nằm trong phạm vi ảnh hưởng của Nho, Phật, Đạo “khuôn mẫu cho đường lối suy tư của nhà văn Việt Nam trong gần bẩy thế kỷ là đường lối suy tư theo Tam giáo: đề tài văn học không bao giờ vượt khỏi ảnh hưởng của ba tư tưởng của Khổng, Phật và Lão.” [71, tr. 2] Với quan niệm văn học là một “sinh hoạt” có “đời sống” riêng, tác giả đã tìm ra những “cá tính” của mỗi một thời đại văn học để dựng nên một bảng lược đồ các “thế hệ” văn học. Phần

văn học cuối thế kỷ XIII đến hết thế kỷ XV được quy về hai thế hệ: Văn học của thời đối kháng Trung Hoa (thế kỷ XIII- XIV) và Văn học của thời phát huy văn hóa dân tộc (1428-1505). Chính vì chú trọng đến cái “cá tính” của mỗi thế hệ như thế mà Thanh Lãng ít nhìn sự vận động của văn học các thời kỳ theo cùng một hệ vấn đề, cụ thể như với trường hợp Nho giáo. Nho giáo tuy được quan niệm là tư tưởng ảnh hưởng xuyên suốt nền văn học “cổ điển” nhưng khi triển khai trình bày các thế hệ văn học, Thanh Lãng hầu như ít chú ý đến sự tác động của Nho giáo đến đời sống văn học hay các tác giả, tác phẩm cụ thể.

Quá trình vận động tới sự điển phạm hóa của văn học nhà nho ở Việt Nam từ Trần Nhân Tông qua Nguyễn Trãi đến Lê Thánh Tông - 2

Các bộ lịch sử văn học của miền Bắc từ năm 1945-1975: Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam [144] của ban Văn- Sử- Địa, Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam [76] của nhóm Lê Quý Đôn chịu tác động của tình hình chính trị đương thời cũng như phương pháp luận nghiên cứu Marxism và phản ánh luận của Lenin nên ít quan tâm đến vấn đề văn học nhà Nho. Họ quy văn học chủ yếu vào các vấn đề dân tộc, đấu tranh giai cấp và phản ánh hiện thực. Thậm chí, bộ Lược thảo còn nói rõ quan niệm không coi các thơ văn viết bằng chữ Hán của ta là những tác phẩm văn học thuần tuý dân tộc, (...) chỉ có những tác phẩm viết bằng ngôn ngữ dân tộc mới hoàn toàn là những tác phẩm văn học dân tộc” [76, tr. 6]. Chính vì thế, văn học chữ Hán bị loại khỏi phạm vi nghiên cứu của bộ lịch sử văn học này, chỉ được đề cập đến một cách sơ lược ở phần phụ của mỗi giai đoạn văn học. Với quan niệm như thế, văn học Việt Nam từ thế kỷ X- thế kỷ XV gần như bị bỏ qua. Cũng vì đứng trên lập trường đấu tranh giai cấp mà các tác giả bộ sách này đánh giá Nho giáo một cách khá cực đoan và thiên kiến: “Nếu chúng ta nói đạo Phật, đạo Lão là những tôn giáo


1 Thanh Lãng quan niệm nền văn học cổ điển bắt đầu từ thế kỷ XIII với Hàn Thuyên và kết thúc vào năm 1862 [71, tr 1] Ông không lý giải tại sao lại chọn những mốc như thế.

mà giai cấp phong kiến lợi dụng để ru ngủ quần chúng, để cho việc thống trị của chúng dễ dàng thì Nho giáo còn hơn thế. Nho giáo nói trắng ra cái việc bảo vệ xã hội phong kiến. Nho giáo đặt ra một kỷ cương chung cho người trong giai cấp phong kiến để đảm bảo sự thống trị của giai cấp được dài lâu, và cho người ở các giai cấp bị trị, để họ không những phục tùng giai cấp phong kiến, mà còn nai lưng làm việc cho giai cấp ấy, chiến đấu để củng cố cái trật tự có lợi cho giai cấp ấy” [76, tr. 181]. Từ đó, các tác giả này đã quan niệm về mối quan hệ giữa văn học và Nho giáo như sau: “Đạo Nho làm nội dung cho văn chương cử nghiệp, nhất là từ nhà Hậu Lê trở về sau. Nhưng tuy đạo Nho can thiệp vào nhiều phương diện sinh hoạt của ta, nó không có tác dụng to tát và tốt đẹp đối với văn thơ ta (văn thơ nôm). Cái chủ nghĩa thực tế của nó, cái tư tưởng mực thước và gò bó của nó là kẻ thù của mọi cuộc vượt lên của tư tưởng, của tình cảm, nó không gây hứng thú. Các thơ truyện của ta thường lấy trung hiếu làm luận đề. Nhưng cái hay cái đẹp lại xuất phát từ những tình tiết khác” [76, tr. 182] Khi nhận định về văn học chữ Hán đến thế kỷ XV, các tác giả bộ sách này chỉ nhìn nhận giá trị yêu nước và tinh thần dân tộc.

Hai bộ giáo trình lịch sử văn học ra đời sau đó của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (xuất bản lần đầu năm 1961) [92] và Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (xuất bản lần đầu những năm 1970) [59] chưa có nhiều chuyển biến khi xem xét văn học Việt Nam dưới góc độ sự ảnh hưởng của Nho giáo, và dưới góc độ những sáng tác của nhà Nho. Bộ giáo trình của Trường Đại học Sư phạm (Bùi Văn Nguyên) vẫn còn cực đoan khi đứng từ quan điểm lập trường đấu tranh giai cấp để gọi Nho giáo là “nọc độc” [92, tr. 20] và nhìn nhận Nho giáo như sau: “Trước sau, Nho giáo thời Tây Chu hay Đông Chu, học thuyết về chữ lễ, chữ nhân hay nhân nghĩa cũng đều là học thuyết của giai cấp chiếm nô hoặc giai cấp phong kiến. Như vậy chúng ta không lấy làm ngạc nhiên thấy giai cấp phong kiến Trung Quốc sang ta, hay giai cấp phong kiến Việt Nam, đều đón lấy Nho giáo... như một “bửu bối”, một công cụ sắc bén, nhằm mê hoặc nhân dân ta bằng nhiều đường, như con đường khoa cử, đường làm quan, v.v... để dễ bề thống trị và bóc lột họ một cách tinh vi” [92, tr. 18]. Chính từ xuất phát điểm này mà việc nhìn nhận ảnh hưởng của Nho giáo tới văn học có những thiên lệch: “những nhân sĩ tiến bộ như Chu An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngô Thì Nhậm, Cao Bá Quát... lại tỉnh táo theo sát đời sống của nhân dân ta

với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chứ không mù quáng theo các loại kinh, truyện của Nho giáo.” [92, tr. 20] “Cách làm để tự tạo cho mình một lối thoát của các nhân sĩ tiến bộ trên là gạn lọc những yếu tố tích cực trong Nho giáo để có thể dung hòa với lẽ phải, trong dân gian…” [92, tr. 21]. Tác giả giáo trình đã đặt Nho giáo trong thế đối lập với tính dân tộc, những yếu tố tiêu cực của văn học được gán cho Nho giáo và những yếu tố mang tính giá trị được gắn liền với dân tộc.

Giáo trình của Trường Đại học Tổng hợp ra đời muộn hơn, cái nhìn với Nho giáo đã bớt khắt khe. Các tác giả đã khách quan nhìn nhận sự thật hiển nhiên văn học trung đại Việt Nam là văn học viết của các nhà Nho, chịu sự ảnh hưởng của Nho giáo: “Ngày xưa, các tầng lớp trí thức- kể cả một bộ phận không nhỏ của tăng lữ nữa- chịu ảnh hưởng của Hán học. Quan niệm về văn học của họ cũng chịu ảnh hưởng của Hán học. Và khi tìm hiểu dòng văn học viết thì không thể không tìm hiểu ảnh hưởng của quan niệm về văn học của tầng lớp trí thức Hán học, ít hoặc nhiều được đào tạo trong nhà trường của Nho giáo” [59, tr. 25]. Việc nghiên cứu các tác giả, các tác phẩm văn học cụ thể đã ít nhiều được quy chiếu từ sự ảnh hưởng của Nho giáo tới văn học. Sự phát triển của Nho giáo và ảnh hưởng của Nho giáo trong văn học đã được xem xét đến. Ở giai đoạn văn học Lý- Trần, các tác giả đã có những nhận xét đáng lưu ý tuy mới sơ lược về mức độ ảnh hưởng của Nho giáo và mối quan hệ với Phật, Đạo: “Cái khuôn Nho giáo có khi chỉ là hình thức. Và những danh từ tu, tề, trị, bình, nhân, nghĩa, trung, hiếu trong trước tác đời Trần lại thường phần nào tách rời khỏi cái khuôn khổ Nho giáo hoặc ít nhiều phá vỡ cái khuôn khổ ấy để có thể vươn lên mà chứa đựng những nội dung thiết thực gần với cuộc đấu tranh của dân tộc để xây dựng đất nước, xây dựng con người” [59, tr. 86]. Tình hình nửa cuối thế kỷ XV khác hẳn: “Nho học đặc biệt được đề cao. Người làm văn học đều là những nhà Nho, nhiều người lại giữ những chức vị cao trong triều đình... Do đó văn học nói chung đã phát biểu quan điểm chính thống của Nhà nước phong kiến và thường nặng về xu hướng thù phụng, ca ngợi. Văn học đã thể hiện rõ rệt tính chất quan phương” [59, tr. 270]. Tuy nhiên, công trình này vẫn chịu ảnh hưởng của cách nhìn cũ nên đôi khi đánh giá Nho giáo chưa thật sự công bằng. Đặc biệt, các tác giả vẫn đem Nho giáo ra để đối lập với tính dân tộc. Ví dụ khi nhận xét về Chu An, Đinh Gia Khánh viết: “Chu An là một nhà Nho. Vậy thì những điều giáo huấn

của ông không thể tách rời những kinh điển của Nho giáo. Nhưng phải thấy rằng đức tính khảng khái, liêm khiết, không màng danh lợi, không ngại cường quyền, bao giờ cũng nghĩ đến nước, đến dân mà ông nêu cao thì lại xứng đáng thuộc vào những giá trị tinh thần của dân tộc” [59, tr. 84].

Nhìn chung, chúng tôi cho rằng, những hạn chế về mặt phương pháp luận khoa học và thế giới quan đã khiến các tác giả miền Bắc trong giai đoạn 1945-1975 nhận định về Nho giáo khá thiên lệch dẫn đến những né tránh hoặc phủ nhận ảnh hưởng, đặc trưng, kể cả những giá trị, đóng góp mà Nho giáo đem lại cho văn học.

2.2. Kể từ sau đổi mới2, trong vòng mấy chục năm gần đây, nhiều công trình

nghiên cứu của các tác giả Trần Đình Hượu: Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại (1995), Loại hình học tác giả nhà Nho- Nhà Nho tài tử và văn học Việt Nam (1995); Trần Ngọc Vương: Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung (1997), Văn học Việt Nam thế kỷ X-XIX (2007, chủ biên) và Trần Nho Thìn: Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa (2003, 2008), Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX (2012)... đã đạt được những thành tựu có ý nghĩa đặt nền móng cho việc nghiên cứu văn học nhà Nho. Điểm chung của những công trình này là quan niệm nghiên cứu văn học theo phương pháp xã hội học- lịch sử, kết hợp phương pháp loại hình học hay văn hóa học. Nhưng không giống với xã hội học của miền Bắc giai đoạn 1945-1986 tập trung vào vấn đề đấu tranh giai cấp, đánh giá tác phẩm dựa trên những định kiến về đối tượng trong hiện thực, những công trình này đều được thực hiện theo quan niệm xã hội học mang tinh thần khoa học và hiện đại. Các tác giả xem xét văn học từ góc nhìn xã hội, lịch sử, tư tưởng, triết học, tôn giáo và các vấn đề văn hóa. Trần Đình Hượu có thể coi là người đầu tiên đặt vấn đề nghiên cứu văn học nhà Nho một cách hệ thống. Ông cho rằng: “Nếu hiểu A là văn học do nhà nho viết và viết theo quan niệm văn học Nho giáo, là văn, thơ, phú, lục, là văn học Đông Á... thì cũng cần làm sáng tỏ quan hệ giữa văn hóa và văn học giữa Việt Nam và Trung Quốc, quan hệ giữa Nho giáo với Phật giáo, tư tưởng Lão- Trang, nhà Nho Việt Nam với tư cách là tác giả văn học, sự khác nhau không phải là ít trong thực tế và lịch sử giữa các nước Đông Á” [49, tr. 11]. Trần Nho Thìn theo


2 Đây là một mốc có tính chất tương đối. Các công trình này đều xuất bản sau 1986, nhưng thực chất nhiều bài viết trong đó được ra đời sớm hơn thời điểm này rất nhiều.

đuổi phương pháp tiếp cận văn hóa học, sử dụng cách thức phục nguyên lại đời sống văn hóa của một thời đại nhất định, giải mã các hiện tượng văn hóa để giải quyết các vấn đề của văn học. Từ góc nhìn này, ông đã có một số những ý kiến xem xét lại các luận điểm về văn học nhà Nho của Trần Đình Hượu, đặc biệt là ở việc phân chia ba mẫu hình nhà Nho. Nhìn chung, nhóm các tác giả này dù có những khác biệt nhất định nhưng đã giải quyết được các vấn đề cơ bản mang tính lý thuyết của văn học nhà Nho từ góc nhìn xã hội học- lịch sử và văn hóa học này:

- Xem xét một cách khách quan mối quan hệ giữa Nho giáo và văn học trong tương quan với Phật và Lão- Trang từ nguồn gốc lịch sử và quá trình phát triển của Nho giáo, đặc biệt là từ thời Khổng Tử ở cả hai phương diện: Nho giáo đã đem lại và lấy mất của văn học những gì.

- Công nhận sự ảnh hưởng của Nho giáo đến nền văn học trung đại Việt Nam một cách toàn diện và sâu sắc, kể cả khía cạnh tích cực và tích cực của nó. Các tác giả đã phác thảo diện mạo của nền văn học nhà Nho ở các giai đoạn, các thời kỳ, các thể loại, cảm hứng, hệ thống nhân vật, tác giả, tác phẩm lớn...

Đặc biệt, Trần Đình Hượu trong bài viết “Xác định cái dân tộc, cái cổ điển làm cơ sở để phân kỳ lịch sử văn học dân tộc” [49] đã đề cập đến tính cổ điển, điển phạm của văn học trung đại. Theo ông, “Cái cổ điển vốn là nói về hình thức… Cái được coi là cổ điển vừa có hình thức nghệ thuật hoàn mỹ, vừa có nội dung đặc sắc, có tính khái quát, có tính dân tộc, có tính nhân loại” [49, tr. 505].

Mặc dù các tác giả này đã xây dựng được một hệ thống lý thuyết khá hệ thống về văn học nhà Nho nói chung, nhưng nhiều vấn đề cụ thể trong đó vẫn còn chờ được giải quyết. Luận án của chúng tôi có thể coi là một sự tiếp tục trên cơ sở những nghiên cứu này với sự gia tăng của các cách tiếp cận mới về một giai đoạn cụ thể của văn học nhà Nho.

Trong xu hướng chung, vấn đề văn học nhà Nho được rất nhiều nhà nghiên cứu văn học trung đại quan tâm đến. Có thể kể tên các công trình đáng chú ý có đề cập đến vấn đề này: Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam (1997) của các tác giả Nguyễn Hữu Sơn- Trần Đình Sử- Huyền Giang- Trần Ngọc Vương- Trần Nho Thìn- Đoàn Thị Thu Vân, Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học trung đại Việt Nam (1997) của Phương Lựu, Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 17/01/2023