Quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX - 15


số ra ngày 9 - 10 - 1942 cũng cho rằng: “Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan là một cuốn sách phê bình có phương pháp, có hành văn, lại sáng suốt, giản dị. Cứ xem đó người ta cũng hiểu được cái lịch trình tiến hoá của nền văn học xứ này trong mấy chục năm gần đây”.

Tìm hiểu Nhà văn hiện đại, chúng tôi nhận thấy rằng đây thực sự là một công trình khoa học có giá trị không chỉ về chất lượng sản phẩm đạt được mà còn là kết quả của một quá trình làm việc công phu, nghiêm túc của một nhà khoa học tâm huyết. Giá trị trước hết ở Nhà văn hiện đại là đã cung cấp một khối lượng tư liệu chính xác và khá đầy đủ về thân thế và số lượng tác phẩm của tất cả 79 nhà văn trong gần nửa thế kỷ. Ông đã trích dẫn rất đầy đủ nguyên văn của các tác giả để làm chứng cho nhận định của mình. Vũ Ngọc Phan cũng chú ý đến năm, tháng xuất bản của tác phẩm. Nếu một tác phẩm được tái bản nhiều lần, ông chọn bản in sau cùng để chỉ ra những gì đã được tác giả sửa chữa.

Viết Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã có chủ trương về phương pháp và mục đích của công trình một cách rò ràng. Ngay từ những trang đầu tiên, ông xác định mục đích công trình của mình là: Nhận cho rò trào lưu, tình hình xã hội và những xu hướng về tinh thần, về vật chất, về chính trị, về tôn giáo, mà tác phẩm chỉ là những tấm gương phản chiếu; xét sự tiến hoá về đường nghệ thuật và tư tưởng của các nhà văn hiện đại qua những tác phẩm của họ, để xem trong số họ, những người nào là những người giữ chức vụ hướng đạo hay quan sát và những người nào chỉ là người theo trào lưu; so sánh trình độ văn học của ta với trình độ văn học những nước mà chúng ta đã hiểu biết về văn hoá và so sánh những nhà văn hiện đại của ta với những nhà văn thuở xưa của ta để ước định con đường tiến bộ tạm thời và tương lai; cắt nghĩa sự thành công của mỗi nhà văn đối với từng loại độc giả [132,tr.30]. Về phương pháp, Vũ Ngọc Phan nêu rò phương pháp của mình, cũng như những cơ sở lý thuyết


mà ông lấy làm điểm tựa. Ông tán thành lý thuyết phê bình của Brunetière nhưng không đồng ý tính “độc đoán, thiên vị” của tác giả này trong việc ứng dụng thực tiễn nghiên cứu văn học. Vì thế, Vũ Ngọc Phan chủ trương dùng “phương pháp tổng hợp” để ứng dụng phù hợp với “hoàn cảnh văn học” và “trình độ tri thức của dân tộc”. Ông tuyên bố: “Tôi đã theo phương pháp khoa học và căn cứ vào những bằng chứng xác thực để phê bình, sự khen chê không bao giờ vu vơ cả!” [132,1176].

Dựa vào tiến trình vận động và phát triển của lịch sử, Vũ Ngọc Phan đã sắp xếp, phân loại các tác giả khá uyển chuyển. Trước hết là các “nhà văn lớp đầu”, “hồi mới có chữ quốc ngữ”, đó là các nhà văn trong nhóm Đông Dương tạp chí Nam Phong tạp chí, các nhà biên khảo và dịch thuật, các tiểu thuyết gia, các thi gia; đến các “nhà văn lớp sau” gồm các nhà viết bút ký, các nhà viết lịch sử ký sự và truyện ký, các nhà viết phóng sự, các nhà phê bình và biên khảo, các kịch sĩ, các tiểu thuyết gia. Vũ Ngọc Phan đã mạnh dạn giới thuyết khái niệm “Nhà văn hiện đại” khuôn trong những tác giả và tác phẩm có giá trị. Vì vậy, ông chủ trương lựa chọn, giới thiệu và nghiên cứu các nhà văn có “những văn phẩm… được người đương thời chú ý” và “có ảnh hưởng đến người đời”. Nói cách khác, ông chỉ nghiên cứu những nhà văn có sự đổi mới về tư tưởng, nghệ thuật, phù hợp với nhu cầu văn hóa của người đương thời, chứ không lựa chọn, giới thiệu các nhà văn dù đã có “văn chương bán phố phường” nhưng không có dấu hiệu đổi mới. Những nhà văn được ông đánh giá cao, trước hết phải là những người có công với “nền quốc văn”, có công trong việc thúc đẩy “sự tiến hóa của nền văn học dân tộc” theo xu hướng hiện đại.

Giới thiệu 79 nhà văn về mọi thể loại, không phải nhà văn nào cũng đem đến cho Vũ Ngọc Phan một cảm hứng để nghiên cứu như nhau. Nhưng bằng phương pháp khách quan, khoa học, cộng với một thái độ nghiên cứu nghiêm


túc, công tâm, trân trọng tài năng, đề cao thành tựu, Vũ Ngọc Phan luôn có nhận xét đánh giá, khen chê đúng mức chứ không hề quá lời với đối tượng nghiên cứu. Những ưu điểm hay nhược điểm của các tác giả, tác phẩm đều được ông chỉ ra một cách rất bình tĩnh, nhã nhặn, vừa hóm hỉnh vừa thâm thúy. Chẳng hạn: Viết về một người hay trích dẫn sách nọ, sách kia, Vũ Ngọc Phan nhận xét: “Nói một câu cho hợp lẽ, việc gì phải viện nhiều thầy như thế. Sau nữa, đã biết viết tất phải biết đọc, cần gì phô cái đọc của mình”. Đôi khi ông có cách nêu ưu điểm của người viết mà lại để cho người viết và độc giả thấy được nhược điểm của tác giả. Đó là trường hợp nói về Lê Văn Trương, ông trích câu kết thúc cuốn tiểu thuyết Tôi là mẹ: “Nàng nâng con se sẽ ru: Sương buồn ôm kín non sông…” và hạ một dòng: “Đó là cái giọng Lê Văn Trương thường không có” [132,tr.869].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 227 trang tài liệu này.

Căn cứ phân loại theo khuynh hướng đặc trưng thể loại của tác phẩm và khám phá riêng trong phong cách từng nhà văn, Vũ Ngọc Phan đã có những phán đoán thật tinh tường trong việc phác họa chân dung của các tác giả qua khảo sát kỹ lưỡng hàng trăm tác phẩm thuộc các thể loại mà họ để lại. Chẳng hạn: Vũ Ngọc Phan rất chính xác trong việc xếp Ngô Tất Tố vào những nhà văn lớp sau. Ông cũng tương đối thành công trong việc nắm bắt phong cách riêng và xác định vị trí của từng nhà văn. Ông khen Phan Kế Bính văn xuất sắc, sáng suốt, lời đanh, câu chắc, thận trọng, kỹ càng, am hiểu nghề văn. Ông xác định, truyện ngắn của Nguyễn Bá Học và Phạm Duy Tốn có tính tả thực nhưng chưa thoát ly khỏi khuôn sáo của văn chương Tàu, vẫn ở dạng truyện ngắn luân lý, chưa có ngôn ngữ nhân vật. Ca ngợi Trương Vĩnh Ký là “một nhà bác học có óc tổ chức và có phương pháp, chứ không phải là một nhà văn như những nhà văn khác” [132,tr.27]. Ông ghi nhận những đóng góp có tính chất thời sự của những tác gia không để lại nhiều tác phẩm quan trọng nhưng có một vị trí đáng kể trong sinh hoạt văn học thời bấy giờ ở cương vị làm báo


Quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX - 15

như: Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh. Ông khẳng định “cái công to lớn” của Phạm Quỳnh cũng như của Nguyễn Văn Vĩnh chính là cái công “khai thác” lúc đầu cho nền quốc văn ngày nay. Ông còn cho rằng, “Trong lịch sử văn học hiện đại, người ta sẽ không thể nào quên được tạp chí Nam Phong (…) cũng như Phạm Quỳnh là hồn của tạp chí Nam Phong” [132,tr.110]. Với Phan Khôi, Vũ Ngọc Phan nêu được cái sắc sảo trong một phong cách tư duy thiên về phê phán, thường hay lật ngược vấn đề, sở trường về bút chiến và cái duyên trong một khả năng bình thơ hàm súc, táo bạo. Nhà nghiên cứu cũng chỉ ra sự không thành công của Phan Khôi trong lĩnh vực sáng tác, khi cho Tình già là bài thơ được chú ý không phải vì âm điệu mà vì ý mới; Trở vỏ lửa ra là một tiểu thuyết phỏng theo Tây cộng với những cái tật của truyện cổ Tàu, ở chỗ tác giả thường xen vào giảng giải, tranh phần xét đoán của người đọc, thậm chí lộ rò “cái cuống quít của tác giả khi gặp một việc không trôi”. Vũ Ngọc Phan đánh giá cao tiểu thuyết của Khái Hưng, bởi “Khái Hưng là một nhà văn được nam nữ thanh niên ưa chuộng, được họ coi là người hiểu biết tâm hồn họ hơn cả”. Vũ Ngọc Phan cho rằng : “Xuân Diệu là người đem đến cho thi ca Việt Nam nhiều cái mới nhất. Thơ Xuân Diệu là cả một bầu xuân, là bình chứa muôn hương của tuổi trẻ, nhất là sự vận dụng hết ngũ quan” [132,tr.786]. Ông còn cho rằng: “Bây giờ người ta đã hiểu thơ Xuân Diệu. Người ta thấy thơ Xuân Diệu đằm thắm nồng nàn nhất trong tất cả các nhà Thơ Mới. Cả ý lẫn lời đều thiết tha, làm cho người thanh niên ngây ngất (…). Những lời say sưa như thế, nếu thi sĩ không rất nồng nàn với cuộc sống thì không tài nào diễn ra được” [132,tr.717-718]. Nhận xét về Nguyễn Công Hoan, nhà nghiên cứu đã nhận ra tính nhân đạo ẩn kín ở truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, cùng những nhược điểm riêng về phong cách và hạn chế trong bút pháp của nhà văn này, Vũ Ngọc Phan viết:

Sự xung đột giữa kẻ giàu và người nghèo là cái cốt của hầu hết


truyện ngắn, truyện dài của Nguyễn Công Hoan. Khi hạng nghèo đụng chạm đến hạng giàu bao giờ người ta cũng thấy ông ngả về hạng nghèo, nhưng khi tả riêng hạng nghèo, ông cũng tả bằng ngọn bút hoạt kê như khi tả hạng giàu mà nhiều khi cay độc (…). Ông tả đủ hạng người trong xã hội, nhưng ít khi ông tả những ý nghĩ của họ. Nhất là những điều u uẩn của họ thì không bao giờ ông đả động đến. Bao giờ ông cũng đặt họ vào những khuôn khổ riêng, đó là khuôn lễ giáo hay khuôn phong tục mà họ đã “ra trò” với bộ mặt phường tuồng của họ [132,tr.1078].

Ông còn có nhận định thật sâu sắc về tài năng của Nguyễn Công Hoan: “Ông viết rất đều tay, và đọc ông, không bao giờ ta phải phàn nàn rằng ông chỉ quanh quẩn trong mấy đầu đề như nhiều nhà văn khác (…). Tôi tin rằng trong phạm vi tả chân và trào lộng, cây bút của Nguyễn Công Hoan mới có thể vững vàng, còn ngoài phạm vi ấy, tôi e rằng nó sẽ lung lay” [132,tr.1079]. Đặc biệt, đối với Nguyễn Tuân, Vũ Ngọc Phan đã tỏ ra tinh tường trong việc đánh giá văn chương của nhà văn tài hoa này. Ông khẳng định, Nguyễn Tuân: “đứng hẳn về một phái riêng, cả lối văn lẫn tư tưởng (…) được chú ý đến lối hành văn đặc biệt của ông và những ý kiến cùng tư tưởng phô diễn bằng những giọng tài hoa, sâu cay và khinh bạc, lúc thì đầy nghệ thuật, lúc thì bừa bãi lôi thôi như một bức phác họa, nhưng bao giờ nó cũng cho ta thấy một trạng thái của tâm hồn [132,tr.469-470]. Vũ Ngọc Phan cũng là người đầu tiên chỉ ra nét phong cách đặc biệt của Nguyễn Tuân, đó là “tính hào hoa và giọng khinh bạc”, ông viết:

Sự thâm trầm trong ý nghĩ, sự lọc lòi trong quan sát, sự hành văn một cách hoàn toàn Việt Nam, Nguyễn Tuân là nhà văn theo thuyết hoài nghi, ông có khuynh hướng về chủ nghĩa vật chất và gần như muốn tin ở cái ma lực của bản năng, ông lại ưa thích những cái cố hữu, nên


tuy là người muốn xê dịch, tuy nhận mình là kẻ giang hồ nhưng sự thật thì chỉ khi viết về những cái xưa cũ, những cái thuộc về quê hương đất nước, ông mới viết tinh vi và sâu sắc. Ông là một nhà văn đặc Việt Nam, có tính hào hoa và giọng khinh bạc đệ nhất trong văn giới hiện đại [132,tr.490].

Ông cho rằng, tác phẩm đầu tay của Nguyễn Tuân, Vang bóng một thời, là một văn phẩm gần tới sự toàn thiện toàn mỹ, quả là một văn phẩm quý, và “cái quý giá ấy sẽ còn tăng lên nữa với thời gian, như một thứ đồ cổ vậy”. Vì vậy, theo Vũ Ngọc Phan: “Một ngày không xa, khi văn chương Việt Nam được ham chuộng hơn bây giờ, tôi dám chắc những văn phẩm của Nguyễn Tuân sẽ có địa vị xứng đáng hơn nữa” [132,tr.439]. Những nhận định và phát hiện của Vũ Ngọc Phan về Nguyễn Tuân chứng tỏ sự chuẩn xác trong nghiên cứu, đúng như nhiều người nhận xét: Phần nghiên cứu về Nguyễn Tuân là một trong những phần nghiên cứu xuất sắc nhất trong công trình Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan.

Trong quá trình nghiên cứu các tác giả, tác phẩm văn học, Vũ Ngọc Phan luôn đặt tác giả, tác phẩm đó vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể để có thể định giá một cách chính xác, công bằng để không rơi vào tình trạng “thiên vị” hay “a dua” theo dư luận. Trường hợp đánh giá Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách là một ví dụ. Không đồng ý với quan niệm “hết chê nó không hợp thời về truyện, lại không hợp thời về văn”, Vũ Ngọc Phan cho rằng: “Cố nhiên nó không phải một “truyện của thời nay”, tuy nó mới ra đời cách đây hai mươi năm. Hai mươi năm giá ở một nước tới một trình độ tiến hóa đầy đủ thì chỉ là một thời gian không đáng kể, nhưng ở vào nước Việt Nam ta, sự tiến hóa đang rất mau, rất bồng bột từ khi tiếp xúc với nền văn minh Tây phương, hai mươi năm có thể coi là một thế hệ” [132,tr.325]. Vì vậy, ông có nhận xét công bằng và xác đáng về tác phẩm này: “Tố Tâm là một quyển truyện viết


rất văn hóa, kết cấu cũng khá và đã ra đời trong một thời mà tiểu thuyết sáng tác còn thấp kém, quốc văn còn trong thời kỳ phôi thai. Bởi thế, cho nên Tố Tâm là quyển tiểu thuyết đầu tiên được mọi người chú ý đặc biệt” [132,tr.329]. Nhận xét về nhà tiểu thuyết tiêu biểu của Nam Bộ - Hồ Biểu Chánh, Vũ Ngọc Phan khẳng định sự tiến bộ về nghệ thuật tả chân trong tiểu thuyết của ông. Nhà nghiên cứu còn cho rằng, các nhà văn “đi tiên phong” ở nước ta, từ Nguyễn Bá Học trở lại, đến Hồ Biểu Chánh, “tiểu thuyết nước ta mới bắt đầu đến bước vững vàng, để dần dần đi tới ngày nay là lúc đã có thể chia ra nhiều ngả, phân ra nhiều loại” [132,tr.342].

Tác giả công trình Nhà văn hiện đại cũng tỏ rò sự am hiểu sâu sắc đặc trưng các thể loại văn xuôi mà đặc biệt là đối với tiểu thuyết. Ông đã giới thiệu về 27/ 79 nhà văn là tiểu thuyết gia và đã có những nhận định tương đối hợp lý về đặc trưng của thể loại tiểu thuyết trên các phương diện: cách tiếp cận cuộc sống và tái tạo cuộc sống theo cái nhìn nghệ thuật và bút pháp tự sự của những bản lĩnh nghệ thuật khác nhau; những tiếng nói nghệ thuật và giọng điệu đa dạng; năng lực hư cấu, khám phá, tác động vào cuộc sống hiện tại và người đương thời; kỹ thuật bố cục và miêu tả không gian, thời gian trong sự gắn bó chặt chẽ với tính cách… Ông cũng nhận ra một cách sâu sắc cái mà tiểu thuyết thu hút mạnh mẽ người đọc là ở chỗ: sống động, bề bộn, phức tạp, nhiều nghịch lý và bất ngờ như cuộc sống đang diễn tiến, nó lôi cuốn người ta cùng can dự vào nhân tình thế thái hiện thời, đồng thời khơi gợi sự tự nhận biết để hoàn thiện bản thân trong sự liên tưởng và ám ảnh từ những câu chuyện được đọc qua. Ông kết luận: “Đọc tiểu thuyết, người ta thấy có cái thú vị nồng nàn là được sống sâu rộng hơn, thấm thía hơn, vì ở đời không một ai được sống trọn vẹn, không một ai được sống với tất cả giác quan rung động, với tất cả mọi hành vi cùng tư tưởng bồng bột và thâm trầm. Chính tiểu thuyết là một loại văn có thể bổ khuyết cho ta về những cái thiếu sót ấy”


[132,tr.749-750]. Với sự am hiểu khá sâu sắc như thế nên Vũ Ngọc Phan đã có những nhận định chính xác về các tiểu thuyết gia. Trường hợp viết về Thạch Lam, Nguyên Hồng, Vũ Bằng, Tô Hoài… là những ví dụ cụ thể.

Bên cạnh những thành công, Nhà văn hiện đại cũng bộc lộ những hạn chế nhất định. Chẳng hạn, sự lúng túng trong việc sắp xếp tác giả theo thể loại và trong thể loại, phân chia theo loại đề tài, ở hai tập sau, sự nhầm lẫn trong việc nhìn nhận, đánh giá và “dự báo” tài năng nghệ thuật của một số nhà văn. Tuy nhiên, chúng ta phải thừa nhận, so với những thành tựu đạt được thì một vài nhược điểm nhất định như vừa nêu là không đáng kể. Nhà văn hiện đại vẫn xứng đáng là một công trình nghiên cứu có quy mô lớn “dựng lên bức tranh toàn cảnh về các tác gia và tác phẩm” trong vòng 30 năm như những “kỳ đài sừng sững”, là một thành quả đáng tự hào không chỉ về giá trị học thuật mà còn là một pho tư liệu hết sức bổ ích cho các nhà nghiên cứu sau này. Điều này một lần nữa khẳng định, Nhà văn hiện đại thực sự là một cột mốc đáng nhớ trong lịch sử phát triển của hoạt động nghiên cứu văn học giai đoạn trước 1945. Cùng với Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan xứng đáng là nhà nghiên cứu xuất sắc của thời đại khi đã có những đóng góp quan trọng trong quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học ở giai đoạn này.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu từng giai đoạn văn học của Ngô Tất Tố, Nguyễn Đổng Chi và Vũ Ngọc Phan tuy còn bộc lộ nhiều hạn chế, tuy nhiên, có thể nói đây là những công trình khá đồ sộ mang tính tổng lược cao của từng giai đoạn lịch sử văn học nước nhà, tập hợp được nhiều tác giả và tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam qua từng chặng đường phát triển. Điều này chứng tỏ kiến văn rộng lớn của ba tác giả, đồng thời cũng thể hiện công phu và tâm huyết của những nhà nghiên cứu đối với gia tài văn học dân tộc. Cái cách mà Ngô Tất Tố phân chia ra làm 6 loại ở Văn học đời Trần (chính trị, lý thuyết, sử truyện, thơ văn, giáo dục, vò bị) là một việc làm tỉ mỉ,

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 25/07/2022