Phát Triển Sản Phẩm Dịch Vụ Xếp Hạng Tiến Tới Tạo Ra Nguồn Thu Ổn Định Và Minh Bạch


của ngành, nguy cơ thay đổi các sản phẩm thay thế và xu hướng tăng trưởng trong ngành). Thông thường, nếu công ty hoạt động trong các ngành công nghiệp khác nhau, các CRA sẽ cố gắng xác định ngành chính và/hoặc sử dụng trung bình trọng số của rủi ro ngành đánh giá (tùy thuộc vào tính trọng yếu) để xác định đánh giá rủi ro ngành.

+ Rủi ro từ vị thế cạnh tranh (Competitive position risk): Vị trí cạnh tranh bao gồm sự kết hợp về các đánh giá rủi ro kinh doanh dành riêng cho công ty và các thuộc tính hoạt động làm tăng hoặc giảm đánh giá đổi với rủi ro ngành và rủi ro quốc gia. Phương pháp luận nhóm các tính năng này thành bốn thành phần: Lợi thế cạnh tranh; Quy mô, phạm vi và sự đa dạng; Hiệu quả hoạt động và Lợi nhuận của công ty. Điểm mạnh và điểm yếu của công ty liên quan đến các yếu tố này hình thành nên dánh giá về khả năng cạnh tranh của nó trên thị trường, tính bền vững và biến động của công ty đối với doanh thu và lợi nhuận. Một công ty có vị thế cạnh tranh tốt sẽ tạo ra lợi nhuận vượt trội so với các công ty cùng ngành, trong khi các công ty có vị thế cạnh tranh yếu hơn sẽ cho thấy các số liệu về lợi nhuận kém hơn các công ty cùng ngành.

Rủi ro về tài chính (Financial Risk Profile) xem xét chủ yếu đánh giá về dòng tiền/đòn bẩy (Cash flow/leverage) của doanh nghiệp.

+ Các mô hình đánh giá khả năng tạo ra dòng tiền trong hiện tại và tương lai liên quan đến nghĩa vụ thanh toán thường là chỉ số được sử dụng để phân tích rủi ro tài chính của một công ty. Các tiêu chí hướng dẫn các nhà phân tích để đánh giá một loạt tín dụng các tỷ lệ, chủ yếu dựa vào dòng tiền, bổ sung cho nhau bằng cách tập trung chú ý vào mức độ khác nhau của dòng tiền của công ty liên quan đến nghĩa vụ của nó (ví dụ: trước và sau khi thay đổi vốn lưu động, trước và sau chi tiêu vốn, trước và sau sau khi trả cổ tức). Hơn nữa, các tiêu chí hướng dẫn các nhà phân tích theo các tỷ lệ có liên quan nhất trong việc đo lường rủi ro tín dụng của công ty theo tỷ lệ đặc điểm cá nhân và chu kỳ kinh doanh. Đối với những công ty hoạt động trong rủi ro đặc biệt thấp các ngành và quốc


gia, CRA có thể sử dụng các ngưỡng ít nghiêm ngặt hơn để đánh giá rủi ro tài chính của họ. Ngược lại, đối với những công ty mà chúng tôi coi là dễ gặp rủi ro hoặc biến động cao, CRA có thể điều chỉnh đánh giá dòng tiền / đánh giá đòn bẩy đến xếp loại thấp hơn. Đối với mỗi công ty, các CRA tính toán hai tỷ lệ tín dụng cốt lõi, dòng tiền thuần từ hoạt động (FFO) và EBITDA để thanh toán nợ. Hai tỷ lệ hoàn vốn này được sử dụng làm tỷ lệ ban đầu để xác định tương đối xếp hạng rủi ro tài chính của các công ty. Đánh giá sơ bộ này sau đó có thể được điều chỉnh thông qua phân tích tỷ lệ bổ sung phù hợp với từng ngành nghề.

+ CRA điển hình như S&P xem xét ba tỷ lệ bổ sung tiêu chuẩn là Dòng tiền tư từ hoạt động so với giá trị khoản nợ (CFO to debt), dòng tiền hoạt động (FOCF to debt) và dòng tiền thuần (DCF to debt) là các chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán nợ và hai tỷ lệ bổ sung khác là (FFO + lãi suất) để thanh toán lãi và EBITDA so với chi phí lãi là các tỷ lệ bảo đảm thanh toán. Nếu tỷ lệ bổ sung cho kết quả khác biệt lớn với đánh giá sơ bộ thì các chuyên viên phân tích của CRA sẽ có thể điều chỉnh đánh giá rủi ro tài chính của công ty đó.

Đánh giá về hồ sơ tín dụng độc lập (Stand-Alone Credit Profile (SACP))


+ Đa dạng hóa/hiệu quả danh mục đầu tư (Diversification/portfolio effect): Phân tích này áp dụng cho các công ty và tập đoàn nhằm mục đích nắm bắt những lợi ích của đa dạng hóa hoặc hiệu quả danh mục đầu tư với công ty có nhiều ngành nghề kinh doanh. Lợi ích của sự đa dạng trong từng ngành nghề kinh doanh được đánh giá trong vị thế cạnh tranh của tổ chức đó. Từ đó nó có thể giúp thay đổi các kết luận của CRA đối với với nội dung phân tích đã thực hiện.

+ Cấu trúc vốn (Capital structure): Việc đánh giá cấu trúc vốn của một công ty nắm bắt các rủi ro có thể không phát sinh trong quá trình phân tích dòng tiền và đòn bẩy. Những rủi ro này có thể tồn tại do ngày đáo hạn nợ hoặc khoản phải trả không khớp giữa các nguồn tài chính của


công ty, tài sản hoặc tiền mặt của công ty. Các CRA có thể xem xét bốn yếu tố sau trong danh mục này: Rủi ro thanh khoản đối với nợ; Thời hạn đáo hạn nợ; Rủi ro lãi suất của khoản nợ; Các khoản đầu tư. Trong đó S&P (2019) cho rằng các yếu tố rủi ro khả năng thanh khoản và thời hạn đáo hạn nợ có thể có tác động đáng kể đến việc đánh giá cấu trúc vốn bởi vì mang những rủi ro lớn nhất.

+ Chính sách tài chính (Financial policy): Điểm đặc biệt của dòng tiền/đòn bẩy thường là dựa trên yếu tố trong hoạt động và số liệu dòng tiền được quan sát trong hai năm quá khứ để đưa ra các xu hướng dự đoán cho năm hiện tại và hai năm tiếp theo. Tuy nhiên, những giả định đó không phải lúc nào cũng luôn phản ánh đầy đủ các rủi ro từ sự kiện ngắn đến trung hạn hoặc dài hạn khi nó được xuất phát từ chính sách tài chính của nhà phát hành. Chính sách tài chính phục vụ để tinh chỉnh quan điểm về rủi ro của một công ty ngoài các kết luận đã rút ra từ các phần phân tích, đánh giá trước đó. Các giả định và các yếu tố chính sách tài chính có thể dự đoán được sẽ được đưa vào trong phân tích, chẳng hạn như thanh toán cổ tức thông thường hoặc chi tiêu mua sắm định kỳ. Đồng thời CRA còn quan tâm đến quan điểm của nhà quản lý đối với rủi ro tài chính sẽ gia tăng đòn bẩy hoặc ngược lại hay không. Do đó, việc điều chỉnh chính sách tài chính là thước đo ảnh hưởng (tiêu cực, tích cực hoặc trung lập) đến các đánh giá tài chính của CRA.

+ Thanh khoản (Liquidity): Thanh khoản là một thành phần quan trọng trong đánh giá của rủi ro tín dụng. Không giống như hầu hết các các yếu tố xếp hạng thường không tác động trực tiếp/nhanh chóng, việc thiếu thanh khoản có thể dẫn đến nguy cơ vỡ nợ của một tổ chức đang đánh giá ở mức lành mạnh. Theo đó, thanh khoản là một đặc tính độc lập của một công ty, được đo trên cơ sở tuyệt đối và thường được đánh giá độc lập, không liên quan đến các công ty cùng ngành hoặc khác các công ty trong cùng loại đánh giá. Phân tích định lượng thanh khoản tập trung vào dòng tiền - nguồn và sử dụng tiền mặt. Phân tích cũng đánh giá tiềm


năng của một công ty vi phạm các bài kiểm tra giao ước liên quan đến sự sụt giảm trong EBITDA. Phương pháp này kết hợp một phân tích định tính nhằm giải quyết các yếu tố như khả năng hấp thụ các sự kiện có tác động cao, xác suất thấp (high-impact, low-probability events), thay đổi bản chất của mối quan hệ với ngân hàng, mức độ ổn định trên thị trường tín dụng và mức độ thận trọng của công ty trong quan hệ vay nợ.

+ Đánh giá về năng lực quản lý và quản trị (Management and governance): Việc đánh giá quản lý và quản trị bao gồm phạm vi giám sát rộng, liên quan đến: chủ sở hữu doanh nghiệp, đại diện hội đồng quản trị, giám đốc điều hành và các nhà quản lý trong bộ máy của doanh nghiệp. Việc đánh giá bao gồm phân tích về năng lực hoạch định chiến lược, hiệu quả hoạt động thực tế và khả năng quản lý rủi ro của họ thể hiện trong khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường và hồ sơ tín dụng quá khứ. Nếu một doanh nghiệp có khả năng quản lý rủi ro chiến lược và vận hành tốt thì nhà quản lý sẽ đóng vai trò vai trò tích cực thành công đó. Ngược lại, quản lý yếu với một chiến lược hoạt động thiếu sót hoặc không có khả năng thực hiện kế hoạch kinh doanh của mình một cách hiệu quả sẽ có khả năng làm suy yếu đáng kể hồ sơ tín dụng của một doanh nghiệp. Vì vậy, việc phân tích định tính thường dựa trên trên bằng chứng, có thể là các kết quả đạt được trong quá khứ đến thời điểm hiện tại và các dự báo đưa ra trong tương lai đối với hoạt động quản lý và quản trị của toàn doanh nghiệp.

+ Phân tích so sánh xếp hạng (Comparable ratings analysis): các nhà phân tích của CRA sẽ thực hiện đánh giá tổng thể hồ sơ rủi ro tín dụng độc lập của công ty từ các kết quả của 5 nội dung đã phân tích. Việc áp dụng phân tích xếp hạng so sánh phản ánh nhu cầu "tinh chỉnh" kết quả xếp hạng để kết quả đưa ra hợp lý, chính xác và kết nối được các kết quả phân tích với nhau. Một công ty nhận được đánh giá tích cực (positive assessment) nếu xếp hạng tương đối của nó trong từng xếp hạng thành phần thường ở mức cao của phạm vi điểm (range). Ngược lại, công ty


nhận được đánh giá tiêu cực (negative assessment)nếu xếp hạng tương đối của nó trong từng xếp hạng thành phần thường ở mức dưới thấp của phạm vi điểm. Cuối cùng, nó sẽ nhận mức đánh giá trung lập (neutral assessment) nếu các xếp hạng thành phần ở phần giữa của khoảng điểm.

Phân tích tác động của nhóm - tập đoàn/chính phủ (Group or government influence): phân tích này xem xét khả năng khả năng hỗ trợ bất thường từ nhóm – tập đoàn hoặc chính phủ với các doanh nghiệp nằm trong các nhóm – tập đoàn hoặc là một tổ chức có liên quan đến chính phủ. Các phương pháp chuyên biệt như GRM GRE của S&P sẽ được sử dụng trong các trường hợp này với nhiều tiêu chí khác nhau. Các CRA sẽ cố gắng xác định các thành viên của nhóm, xác định hồ sơ tín dụng nhóm, đánh giá trạng thái tài chính của các tổ chức trong nhóm và khả năng hỗ trợ và kết hợp của các tổ chức này với doanh nghiệp được xếp hạng ví dụ như khi doanh nghiệp gặp khủng hoảng thì có nhận được sự hỗ trợ từ chính phủ để giúp cải thiện khả năng đáp ứng các nghĩa vụ tài chính đến hạn…

Trong xếp hạng một nghĩa vụ nợ riêng lẻ, chẳng hạn như trái phiếu doanh nghiệp, các CRA thường sử dụng thông tin từ tổ chức phát hành và các nguồn khác để đánh giá chất lượng tín dụng của vấn đề và khả năng vỡ nợ. Trong trường hợp trái phiếu do tập đoàn phát hành CRA thường bắt đầu bằng việc đánh giá uy tín của nhà phát hành trước khi đánh giá chất lượng tín dụng của vấn đề nợ cụ thể. Sau khi đánh giá về nhà phát hành tương tự như trên đã trình bày thì các yếu tố liên quan đến công cụ nợ sẽ được xem xét một cách chi tiết hơn như các điều khoản và điều kiện liên quan đến khoản nợ, tài sản thế chấp cho khoản nợ đó và các bảo đảm khác, các nghĩa vụ liên quan khác, thời hạn thanh toán nghĩa vụ nợ, giá trị tài sản của nhà phát hành…

5.2.4.2. Phát triển sản phẩm dịch vụ xếp hạng tiến tới tạo ra nguồn thu ổn định và minh bạch

Đầu tiên, DCRA hiện tại cần tích cực tương tác với các phương tiện truyền thông. Do hoạt động xếp hạng của CRA chưa nhiều, các doanh nghiệp và nhà đầu tư không có được thông tin, tín hiệu cần thiết để trực tiếp hình thành kinh nghiệm, kiến


thức thực tế về tổ chức thì việc đánh giá qua nhận thức là phù hợp. Các dịch vụ xếp hạng chuyên nghiệp cần được chuyển tải thông tin đầy đủ trên nhiều hình thức và phương tiện truyền thông khác nhau. Điều đó sẽ giúp cho các dịch vụ này được nhiều khách hàng tiềm năng biết đến và tiếp cận sử dụng nó. Đồng thời các thông tin có tác động mạnh đến nhận thức của doanh nghiệp và nhà đầu tư như phương pháp xếp hạng chặt chẽ, đội ngũ nhân sự chất lượng cũng như tất cả các kết quả xếp hạng đã thực hiện cần được truyền tải đầy đủ trên website của CRA, các tạp chí uy tín, các trang thông tin kinh tế tài chính có nhiều người tiếp cận, các tổ chức thường xuyên sử dụng kết quả xếp hạng như công ty chứng khoán, ngân hàng…

CRA doanh nghiệp tại Việt Nam nên đa dạng hóa mô hình kinh doanh hơn so với hiện tại VẪN đang chủ yếu hướng đến cung cấp dịch vụ theo mô hình nhà phát hành trả phí. Với các xu hướng phát triển sau khủng hoảng tài chính thì thị trường lại đón nhận nhiều hơn các mô hình kinh doanh khác của CRA. Mô hình cung cấp thông tin theo tài khoản đăng ký cho phép các nhà đầu tư cá nhân, nhà đầu tư không chuyên và các chủ thể khác có nhu cầu tiếp cận báo cáo XHTN với mức phí phù hợp. Các kết quả, báo cáo cần được phân loại một cách rõ ràng và tính phí một cách phù hợp. Các kết quả cần được công khai rộng rãi, các nhận định khái quát và báo cáo tóm tắt cần được cung cấp miễn phí cho người đăng ký và các báo cáo chi tiết, đầy đủ sẽ cần được trả một mức phí để tiếp cận đầy đủ. Việc cung cấp thông tin xếp hạng dựa trên quản lý điện tử, bảo mật và chỉ đích danh các người dùng đã đăng ký yêu cầu một nền tảng quản lý công nghệ thông tin tốt, bảo mật và hiện đại. Vì vậy các CRA cần tiếp tục đẩy mạnh đầu tư cho công nghệ, trang web công bố thông tin để mô hình kinh doanh này có thể hoạt động hiệu quả. Đồng thời, CRA có thể nghiên cứu đưa thêm các dịch vụ mới để thúc đẩy đa dạng các dịch vụ xếp hạng doanh nghiệp như:

- Dịch vụ XHTN tổng công ty và tập đoàn


Trong quá trình đổi mới các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty đã có bước phát triển mạnh mẽ, có quy mô lớn về vốn, có trình độ công nghệ cao, quản lý và nắm giữ được những vị trí then chốt của nền kinh tế. Hoạt động của các tổ chức này đã đạt được nhiều thành tích, hiệu quả kinh tế cao, đóng vai trò đầu tàu để góp phần phát triển kinh tế đất nước. Nhưng các tổng công ty và tập đoàn lại có những đặc điểm


hoàn toàn khác biệt với các doanh nghiệp bình thường như (i) Quy mô rất lớn so với các tổ chức kinh tế khác trong xã hội; (ii) Tổ chức gồm nhiều công ty con, đơn vị thành viên; (iii) Quan hệ tín dụng phức tạp với hệ thống ngân hàng; (iv) Đặc điểm tài chính và phi tài chính có quy luật khác biệt; (v) Có quan hệ tương tác lớn với môi trường kinh tế chung và kinh tế ngành; (vi) Phức tạp trong lượng hóa các chỉ tiêu.

Hội đồng chuyên gia

Hệ thống chấm điểm đề nghị

Hồ sơ về khách hàng: Báo cáo tài chính hợp nhất Hồ sơ pháp lý

Hồ sơ đặc điểm, lịch sử của doanh nghiệp

Hồ sơ các công ty con

Lưu hồ sơ

Chấm điểm phi tài chính:



Thời gian hoạt động của doanh

nghiệp

Số năm kinh nghiệm làm lãnh đạo Trình độ Tổng giám đốc (Giám đốc)

Năng lực điều hành của lãnh đạo Tác động của ngành kinh tế Chính sách NN tác động đến DN Cơ cấu tổ chức

Chấm điểm chỉ tiêu tài chính cấp 2:

Hiệu quả sử dụng vốn Tăng trưởng doanh thu Tăng trưởng lợi nhuận


Công bố

Phân loại tập đoàn:

Ngành nghề

Quy mô

Tác động đến ngành, kinh tế và ngược lại...

Điều chỉnh cộng điểm:

Thương hiệu doanh nghiệp

Giải thưởng doanh nghiệp có được

Giải quyết công ăn việc làm cho người lao động

Đóng góp vào hoạt động an sinh xã hội

Đi đầu trong lĩnh vực công nghệ tiên tiến

Đánh giá chung về tình hình hoạt động và vay nợ của tập đoàn

Điều chỉnh trừ điểm:

Các vi phạm trong kinh doanh

Các loại rủi ro

Điểm xếp hạng trước điều chỉnh


Chấm điểm chỉ tiêu tài chính cấp 1:

Nhóm chỉ tiêu thanh khoán

Nhóm chỉ tiêu hoạt động

Nhóm chỉ tiêu cân nợ

Nhóm chỉ tiêu lợi tức

Nhóm chỉ tiêu vay nợ và trả lãi

Vì vậy, cần đưa ra dịch vụ xếp hạng riêng cũng như nghiên cứu, ban hành phương pháp, hệ thống chấm điểm riêng biệt dành cho các tập đoàn và tổng công ty là điều cần thiết. vì vậy luận văn nghiên cứu, phát triển và hệ thống hóa các chỉ tiêu đánh giá của Trung tâm thông tin tín dụng như phương pháp xếp hạng cơ bản các chỉ tiêu và tiến trình thực hiện mang tính định hướng ban đầu.




Phân tích khách hàng:


Phân tích pháp lý

Lịch sử phát triển

Dự án trọng điểm

Ngành kinh tế các công ty con


Tình hình hoạt động

Ban lãnh đạo doanh nghiệp

Quan hệ tín dụng với ngân hàng

Phân tích tài chính của tập đoàn

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 335 trang tài liệu này.

Phát triển thị trường xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp tại Việt Nam - 22


Nguồn: Tác giả đề xuất dựa trên S&P (2018b), MIS (2016)


Hình 5.1. Phương pháp đề nghị để xếp hạng tập đoàn, tổng công ty


- Dịch vụ xếp hạng các doanh nghiệp mới thành lập:


Hàng năm, Việt Nam có rất nhiều doanh nghiệp đăng ký thành lập, nhu cầu huy động vốn cấp tín dụng để thực hiện dự án đầu tư của đối tượng này là rất lớn cho thấy đây là đối tượng khách hàng đầy tiềm năng. Đối tượng doanh nghiệp mới thành lập của hệ thống này được hiểu là doanh nghiệp hoạt động chưa đủ năm, chưa có báo cáo tài chính hoặc doanh nghiệp mới thành lập đã có báo cáo tài chính nhưng trên


báo cáo không có số dư đầu kỳ hoặc đang trong giai đoạn triển khai dự án và chưa có doanh thu. Trong khi đó, các hệ thống xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp tại Việt Nam lại chưa có tiêu chí để có thể chấm điểm doanh nghiệp mới thành lập và các nhà đầu tư rất khó có thể đánh giá khi họ không có kinh nghiệm về nó. Việc xây dựng bộ chỉ tiêu và phương pháp đánh giá đối tượng khách hàng này giúp CRA trở thành tổ chức có sự sáng tạo đổi mới. Đồng thời sẽ hỗ trợ giúp cho các quỹ đầu tư hay ngân hàng có thông tin tham khảo, tiết kiệm thời gian thẩm định, có cơ sở áp dụng chính sách tín dụng phù hợp, bình đẳng, nâng cao chất lượng phục vụ, đảm bảo tính thống nhất trong công tác phân loại nợ và giám sát tín dụng.

Phương pháp cơ bản về xếp hạng tổ chức này có thể tham khảo từ S&P, MIS hay FR và các RCRA trong khu vực. Nghiên cứu đề xuất ý tưởng về phương pháp cần bao gồm nhóm chỉ tiêu cơ bản là hiệu quả vận hành dự án, đánh giá lại dự án đầu tư và tình hình kinh doanh, môi trường hoạt động của doanh nghiệp, rủi ro từ yếu tố tài chính.


Chuyên gia

Lưu hồ sơ

Hệ thống chấm điểm đề nghị

Hồ sơ về khách hàng

Đánh giá, thẩm định dự án Chấm điểm phi tài chính và tài chính

của doanh nghiệp và dự án

Đánh giá hiệu quả vận hành dự án:

Tổ chức triển khai thực hiện dự án

Kinh nghiệm và năng lực của ban quản lý dự án

Tiến độ thi công của dự án so

với kế hoạch

Chất lượng thực hiện dự án Khả năng cân đối phù hợp với dự án đầu tư

Đánh giá rủi ro từ yếu tố tài chính


Tỷ lệ vốn tự có của khách hàng tại thời điểm đánh giá so với tổng nguồn vốn đầu


Công bố

Đánh giá lại dự án đầu tư và tình hình kinh doanh:

Đánh giá lại hiệu quả kinh doanh của

dự án trước sự biến động của thị trường đầu vào tại thời điểm đánh giá

Đánh giá lại NPV tại thời điểm hiện

tại

Đánh giá lại IRR tại thời điểm hiện tại

Đánh giá lại thời gian hoàn vốn của dự án tại thời điểm hiện tại

Đánh giá môi trường hoạt động của DN:

Khả năng sản phẩm bị thay thế bởi các sản phẩm khác tại thời điểm đánh giá

Xu hướng biến động sản phẩm đầu ra của dự án

trên thị trường trong 12 tháng gần nhất

Xu hướng biến động giá nguyên vật liệu, sản phẩm đầu vào của dự án trong 12 tháng gần nhất

Tình trạng nguồn cung cầu của thị trường lao động

Biến động của tỷ giá

Biến động của lãi suất

Đánh giá chung về doanh nghiệp và dự án


Nguồn: Tác giả đề xuất dựa trên S&P (2018a), MIS (2016)

Hình 5.2. Tiến trình và hệ thống chấm điểm xếp hạng doanh nghiệp mới thành lập, đang trong giai đoạn đầu tư

Xem tất cả 335 trang.

Ngày đăng: 11/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí