Liên Kết Các Cra Với Gcra, Rcra Và Gia Tăng Hội Nhập Quốc Tế, Khu Vực


5.2.4.6. Liên kết các CRA với GCRA, RCRA và gia tăng hội nhập quốc tế, khu vực


Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra là đối với bối cảnh thị trường hiện này thì các DCRA sẽ còn gặp rất nhiều khó khăn để có thể đạt được kết quả tốt nếu như chỉ tiếp tục hoạt động ở mức độ hiện tại. Hướng đi phù hợp hơn là thúc đẩy nhanh tiến độ liên kết, liên doanh để lập tổ chức CRA có sự tham gia của các GCRA nước ngoài.

PTR nói riêng và các CRA nói chung nên thực hiện nhanh chóng việc liên kết, liên doanh với các tổ chức CRA lớn trên thế giới và trong khu vực. Danh tiếng của CRA không thể trong một thời gian ngắn có thể tạo ra trên thị trường mới nổi như Việt Nam và bối cảnh các quy định pháp luật vẫn còn nhiều hạn chế, tiềm lực của PTR cũng bị giới hạn thì việc liên kết, liên doanh là con đường nhanh nhất và hiệu quả nhất để có thể đạt được nhiều mục tiêu. Nếu các CRA trong khu vực hoặc GCRA đồng ý gia nhập vào thị trường Việt Nam thông qua liên kết với PTR thì rõ ràng phương pháp, chất lượng nhân sự, lãnh đạo và các nguyên tắc quản trị của PTR sẽ ngay lập tức được kế thừa từ các tổ chức này. Sau đó, với danh tiếng của các CRA, việc PTR có thể mạnh dạn tiếp cận và cung cấp các sản phẩm sẽ dễ dàng hơn và thị trường cũng sẽ dễ dàng đón nhận với niềm tin vào danh tiếng và sự tin tưởng lớn hơn. Để có thể thu hút được sự tham gia liên doanh, liên kết với các CRA quốc tế thì rất cần CRA xây dựng hồ sơ chứng minh về năng lực, định hướng và tầm nhìn phát triển, chỉ rõ khả năng kinh doanh và tạo nguồn thu và bối cảnh, tiềm năng của thị trường Việt Nam. Bản thân CRA cũng nên có sự chủ động chọn lựa các CRA quốc tế phù hợp để từ đó tiếp cận, chào mời đầu tư và tiến tới các thỏa thuận hợp tác, liên doanh, liên kết theo hướng hài hòa lợi ích cho cả hai và cho sự phát triển chung của thị trường XHTNDN Việt Nam. Để đảm bảo sự thành công, CRA có thể sử dụng các tư vấn chuyên nghiệp trong và ngoài nước để có thể có sự hỗ trợ xây dựng định hướng, tư vấn chiến lược một cách tốt nhất.

Song song với đó, PTR nói riêng và các CRA của Việt Nam nói chung cần hướng đến gia nhập các hiệp hội tổ chức CRA trong khu vực và trên thế giới. Trong đó, khả thi nhất chính là việc tham gia vào Hiệp hội các tổ chức CRA Châu Á (ACRAA). ACRAA được thành lập ngày 14 tháng 9 năm 2001 tại trụ sở Ngân hàng Phát triển Châu Á, Metro Manila, một tổ chức hiệp hội CRA khá non trẻ trên thị


trường nhưng đã có những bước phát triển mạnh mẽ trong thời gian qua. Tính đến năm 2019 ACRAA có 29 thành viên từ 14 quốc gia bao gồm Bahrain, Bangladesh, Ấn Độ, Pakistan, Trung Quốc, Philipines, Indonesia, Nga, Đài Loan, Thái Lan, Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Malaysia, Nhật Bản.

Khi các CRA của Việt Nam gia nhập vào hiệp hội này nói riêng và các hiệp hội CRA khác nói chung thì rõ ràng họ sẽ đạt được rất nhiều mục tiêu. Một mặt, CRA của Việt Nam sẽ thúc đẩy tương tác với khu vực, từ đó đẩy mạnh việc trao đổi ý tưởng, kinh nghiệm, thông tin, kiến thức và kỹ năng với các CRA ở châu Á. Điều đó sẽ nâng cao khả năng và vai trò của họ trong việc cung cấp thông tin thị trường đáng tin cậy hơn. Mặt khác, quan trọng hơn, CRA của Việt Nam sẽ nhanh chóng học tập được và áp dụng thực tiễn các thông lệ, các tiêu chuẩn chung đảm bảo chất lượng cao của các CRA ở Châu Á. Sau đó sẽ là lợi ích lâu dài trong việc thống nhất và tạo ra khả năng so sánh XHTN trong toàn khu vực, tuân theo các quy tắc đạo đức và đạo đức nghề nghiệp cao nhất, tạo ra danh tiếng lớn cho CRA của Việt Nam. Để có thể nhanh chóng gia nhập hiệp hội, CRA Việt Nam cần tìm hiểu chi tiết về các điều kiện hoạt động, nguyên tắc đạo đức cần tuân thủ, thủ tục gia nhập và các chi phí phát sinh trước/sau khi gia nhập. CRA nên có sự chủ động trong việc thực hiện gia nhập và gia tăng kết nối với các hiệp hội để có được thông tin chi tiết về hiệp hội đó, chứng tỏ năng lực và thiện chí trong việc tham gia…


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 335 trang tài liệu này.

5.2.5. Khuyến nghị đối với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp phát hành nói riêng trên thị trường XHTNDN Việt Nam


Phát triển thị trường xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp tại Việt Nam - 24

Các doanh nghiệp nên mở rộng, đa dạng hóa các kênh huy động vốn do nhu cầu về vốn trong các doanh nghiệp đang ngày càng lớn. Việc khai thác nhiều kênh huy động vốn nhằm tìm kiếm nguồn tài trợ có chi phí thấp, cân bằng rủi ro và đảm bảo quá trình đầu tư không bị gián đoạn. Hầu hết các công ty đều rất quen thuộc với việc vay vốn ngân hàng nhưng hệ thống ngân hàng rất khó để có thể đối ứng vốn dài hạn và đảm bảo ổn định lãi suất. Hơn nữa các doanh nghiệp sẽ gặp không ít khó khăn trong giao dịch với ngân hàng về tài sản thế chấp, lập phương án vay gắn liền với mục đích giới hạn, rủi ro lãi suất thay đổi liên tục, áp lực trả nợ bị ấn định theo sản


phẩm của ngân hàng… Do đó, doanh nghiệp có thể nên chú trọng hơn trong việc khai thác kênh huy động trái phiếu nói riêng và các công cụ nợ nói chung để đa dạng nguồn cung vốn.

Để có thể làm được điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp cần có nâng cao năng lực tài chính tốt, minh bạch và rõ ràng hơn về công bố thông tin liên quan đến doanh nghiệp và các rủi ro liên quan đến hoạt động, tuân thủ các quy định chặt chẽ về kế toán, kiểm toán và báo cáo thông tin…

Dựa trên kết quả của mô hình nguy cơ rủi ro tài chính, mặc dù chỉ áp dụng cơ bản với các doanh nghiệp ngành thủy hải sản và bất động sản nhưng cũng đã chỉ ra rất nhiều vấn đề về tài chính mà các doanh nghiệp Việt Nam cần phải cải thiện như: cải thiện khả năng sinh lời trên tài sản, đảm bảo cơ cấu vốn hợp lý với nhu cầu và khả năng, tích cực nâng cao khả năng quản lý với tồn kho và các khoản phải thu… Với một năng lực tài chính lành mạnh thì các doanh nghiệp mới có thể thực hiện tiếp các kế hoạch huy động vốn từ thị trường và nhận được kết quả xếp hạng phù hợp với mong muốn của mình.

Để có thể sử dụng hiệu quả dịch vụ XHTNDN từ các CRA trong và ngoài nước, các doanh nghiệp cũng cần có sự tìm hiểu, nghiên cứu nghiêm túc về XHTN để từ đó thay đổi nhận định về hoạt động XHTN theo hướng tích cực hơn, tiến tới sử dụng dịch vụ như một hoạt động cơ bản trong phát tín hiệu và công khai năng lực của mình cho toàn bộ thị trường, nhà đầu tư, đối tác được biết.


5.2.6. Khuyến nghị đối với các nhà đầu tư trên thị trường XHTNDN Việt Nam


Với thực tế các hoạt động trên thị trường trái phiếu trong nước đang được nhà đầu tư tập trung vào trái phiếu chính phủ dẫn đến có hai mặt của vấn đề cần quan tâm. Thứ nhất, các nhà đầu tư hiện tại chủ yếu là nhà đầu tư tổ chức và phần lớn trong số họ là các NHTM do đó việc họ tập trung vào sự an toàn của trái phiếu chính phủ nhằm đảm bảo thanh khoản là hợp lý. Nhưng như vậy có nghĩa là các nhà đầu tư tổ chức không chuyên và các nhà đầu tư cá nhân đang chưa thực sự tham gia vào thị trường một cách tích cực. Thứ hai, trái phiếu chính phủ vì tính chất an toàn nên lãi


thường không cao, cố định và chịu rủi ro lạm phát trong dài hạn. Việc đó cũng khó có thể thu hút các nhà đầu tư tổ chức không chuyên và các nhà đầu tư cá nhân vì họ có thể lựa chọn các kênh đầu tư khác có lãi cao hơn và tiện dụng cho họ hơn rất nhiều như tiền gửi, mua giấy tờ có giá của NHTM hay đầu tư vào bất động sản…

Vì vậy, để hướng sự quan tâm của các nhà đầu tư nói chung và nhà đầu tư không chuyên nói riêng vào thị trường trái phiếu doanh nghiệp thì rất cần các kết quả XHTN có giá trị và chính xác cao. Nhưng trước khi có được các kết quả đó thì cần gia tăng niềm tin chủ quan, thái độ và nhận thức kiểm soát về hoạt động XHTNDN một cách căn cơ.

Các vấn đề đó của các nhà đầu tư vào XHTN sẽ chỉ đạt được khi chính bản thân các nhà đầu tư này am hiểu và rõ ràng về hoạt động xếp hạng và cơ chế của thị trường XHTNDN. Việc nâng cao kiến thức về hoạt động xếp hạng cần có sự tương tác với cơ quan quản lý, các CRA và các chủ thể liên quan khác. Cần phải lưu ý rằng, sự ra đời trong lịch sử của các GCRA đều đến thì sức ép mong muốn minh bạch thông tin của các nhà đầu tư đối với nhà phát hành. Do đó, khi các nhà đầu tư vẫn tiếp tục chỉ sử dụng các thông tin mang tính chất tự công bố của doanh nghiệp và thông tin từ các tổ chức mang tính chất khó kiểm chứng/danh tiếng không cao (như chỉ từ các tư vấn viên của công ty chứng khoán) thì sẽ không thể hình thành thái độ tích cực trong việc tìm kiếm, sử dụng và công nhận với các báo cáo phân tích, đánh giá rủi ro chuyên nghiệp của CRA.

Đồng thời với đó, trên thị trường sẽ mất nhiều giai đoạn để có thể đưa hoạt động còn khá mới là XHTNDN đến phần đông các nhà đầu tư. Không có sự đổi mới nào tự nó có thể lan tỏa mà rất cần các nhân tố tích cực tác động tạo ra hiệu ứng và truyền tiếp sự lan tỏa đến các chủ thể xung quanh. Các nhà đầu tư có thể tăng cường tiếp cận thông tin, tìm hiểu về lợi ích và tính đặc thù của dịch xếp hạng, sử dụng kết quả xếp hạng và đối sánh với các nguồn thông tin khác như từ phân tích của công ty chứng khoán, công ty kiểm toán… sẽ giúp cho các nhà đầu tư có cách nhìn nhận rõ ràng hơn về CRA. Từ đó, họ mới có thể thay đổi nhận thức chủ quan và kiểm soát hành vi của mình đối với các thông tin nhận được từ XHTN.


5.3. Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo


Nghiên cứu gặp phải nhiều khó khăn trong quá trình thu thập thông tin với sự đặc thù của nội dung nghiên cứu cũng như mẫu khảo sát. Từ đó dẫn đến nhiều hạn chế như mẫu khảo sát chưa thực sự đạt mức độ tin cậy cao như mong đợi, thời gian khảo sát kéo dài qua các năm. Đồng thời với đó mô hình SEM chưa thực sự bao quát được các tác động của đặc điểm riêng từng cá nhân trong mẫu khảo sát. Đồng thời cách thức xác định cỡ mẫu theo nguyên tắc thực nghiệm thiếu cơ sở thực sự chặt chẽ. Mặt khác, do nhiều lý do khách quan và chủ quan việc khảo sát, sàng lọc kết quả gặp các khó khăn trong tiếp cận phỏng vấn sâu người trả lời dẫn đến chưa giải thích sâu được về kết quả

Kết quả của nghiên cứu mới chỉ có các khuyến nghị mang tính tổng quát, để có các giải pháp tốt cần có những kiểm chứng, nghiên cứu thực hiện cụ thể hơn. Nghiên cứu sẽ tiếp tục phân tích mô hình để có thể phân tích đa nhóm các nhân tố tác động theo thời gian khảo sát (Multiple group analysis) và phân tích sự thay đổi của mức độ hành vi dự định XHTNDN theo thời gian tại Việt Nam (Latent Grow Analysis) đi cùng với các sự kiện pháp lý/kinh tế lớn trên thị trường để có các kết luận chặt chẽ hơn.

TÓM TẮT CHƯƠNG 5


Thông qua kết quả nghiên cứu, có thể kết luận thị trường XHTNDN Việt Nam mới chỉ đang trong giai đoạn khởi đầu, còn nhiều khó khăn và chưa có được các kết quả đáng kể. So với các quốc gia Châu Á, Việt Nam đã “xuất phát sau” và còn nhiều vấn đề cần giải quyết về chủ thể tham gia thị trường, quy định pháp luật cũng như khả năng của các DCRA trên thị trường. Nhu cầu sử dụng dịch vụ XHTN của các cá nhân là khá rõ rệt. Các cá nhân khó khăn trong việc tiếp cận thông tin nên việc cần có một trung gian thông tin là tổ chức XHTNDN là rất quan trọng. Đây là cơ sở để các nghiên cứu tiếp theo xem xét hướng phát triển đối với thị trường XHTNDN tại Việt Nam. Mức độ hành vi dự định sử dụng kết quả XHTN của các cá nhân chịu ảnh hưởng của cả thái độ, chuẩn chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi. Mức độ tác động mạnh nhất đến hành vi dự định sử dụng XHTNDN của các cá nhân là nhân tố


thái độ, sau đó là quy chuẩn chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi đều có ý nghĩa thống kê. Đồng thời, thông qua việc tuân thủ chặt chẽ các đề nghị, hướng dẫn đối với mô hình TPB, nghiên cứu đã thực hiện xem xét các tác động của niềm tin hành vi, niềm tin quy chuẩn và niềm tin kiểm soát hành vi đối với các thang đo tương ứng. Kết quả cho thấy với các đo lường gián tiếp trong mô hình thì niềm tin kiểm soát hành vi tác động khá mạnh đến nhận thức kiểm soát. Niềm tin hành vi cũng tác động đến thái độ, trong khi đó tác động của niềm tin quy chuẩn yếu hơn một chút.

Đối với ý kiến của các doanh nghiệp, yếu tố tác động đến danh tiếng của CRA doanh nghiệp tại Việt Nam bao gồm sản phẩm dịch vụ, đổi mới, phương pháp xếp hạng, quản trị tổ chức, tính độc lập, lãnh đạo của tổ chức và hiệu quả hoạt động. Đồng thời, nghiên cứu cũng đã chứng minh danh tiếng của CRA có tác động rõ nét đến sự tin tưởng vào CRA và nhận dạng tổ chức CRA, từ đó tác động đến hành vi dự định sử dụng dịch vụ XHTN của các doanh nghiệp tại Việt Nam cùng với nhân tố cam kết. Dựa trên thang đo đã được kiểm chứng là phù hợp và thảo luận kết quả của các mức đánh giá của từng nhân tố trong mô hình thông qua các phân tích thống kê mô tả, nghiên cứu đã chỉ ra các đánh giá về hành vi dự định sử dụng có mức điểm chung ở mức trung bình, các doanh nghiệp mặc dù biết PTR là tổ chức CRA duy nhất hiện tại ở Việt Nam nhưng họ không thực sự xem đó là lựa chọn đầu tiên của họ khi nghĩ về dịch vụ xếp hạng. Đồng thời danh tiếng của CRA có kết quả khảo sát cho kết quả mức điểm của thang đo danh tiếng chỉ được đánh giá ở mức trung bình cho thấy các doanh nghiệp có mức tin tưởng vào danh tiếng của CRA tại Việt Nam (cụ thể là Công ty Sài Gòn Phát Thịnh Rating) là mức đánh giá không thực sự cao. Tuy nhiên, ở chiều ngược lại, các đánh giá trong tương lai về CRA doanh nghiệp phần lớn đều ở mức cao. Điều này cho thấy các doanh nghiệp hiện tại đang còn phân vân với việc sử dụng dịch vụ XHTNDN của CRA nhưng trong tương lai tới họ sẽ vẫn tin tưởng và sử dụng các sản phẩm, dịch vụ của CRA. Như vậy, triển vọng phát triển hoạt động của các CRA đang được doanh nghiệp đánh giá tốt và nếu như các hoạt động của CRA hiệu quả, CRA tạo lập được danh tiếng trên thị trường thì các doanh nghiệp sẽ sẵn lòng trả phí, dù có cao hơn hiện tại, để được cung cấp dịch vụ XTHN cho họ. Đó là một


kết quả đáng ghi nhận để tạo tiền đề cho sự phát triển của thị trường XHTNDN tại Việt Nam.

Nghiên cứu này cũng đã đưa ra các khuyến nghị về hoàn thiện quy định pháp lý, thực hiện các chính sách thúc đẩy các bên tham gia, gia tăng chất lượng thông tin và giáo dục liên quan đến XHTNDN. Đồng thời với đó, nghiên cứu cũng đưa ra các khuyến nghị với CRA và doanh nghiệp, nhà đầu tư trên thị trường như hoàn thiện phương pháp, phát triển sản phẩm, áp dụng cải tiến công nghệ…

Chương 5 cũng đã chỉ ra những hạn chế của nghiên cứu như cỡ mẫu nhỏ, phương pháp thu thập gặp nhiều khó khăn, chưa thể hiện được đặc điểm của mẫu nghiên cứu và các khuyến nghị đưa ra còn cần hướng đến các giải pháp cụ thể hơn trong tương lai.


TÀI LIỆU THAM KHẢO


TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT


Bộ Tài chính (2020). Thông tin báo chí về thị trường Trái phiếu doanh nghiệp. https://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/tttc/r/o/thongcaobaochi/thongcaoba ochi_chitiet?dDocName=MOFUCM176737&dID=184712&_afrLoop=76675 89738020866#%40%3FdID%3D184712%26_afrLoop%3D766758973802086

6%26dDocName%3DMOFUCM176737%26_adf.ctrl- state%3D11kkd3m926_4

Fiin Ratings (2020). Tổng quan về Fiin Ratings. https://fiingroup.vn/ FiinRating/ Overview Of FiinRating? lang=vi-vn

HNX (2016). Đề án Phát triển thị trường Trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam. Ủy ban chứng khoán nhà nước. Bộ Tài chính

Hoàng Trọng, Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008). Phân tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS, tập 2. NXB Hồng Đức

Lê Quang Cường (2007). Xây dựng mô hình tổ chức định mức tín nhiệm ở Việt Nam.

Tạp chí Phát Triển Kinh Tế. Số 198


Ngân hàng thế giới (2015). Nhà ở giá hợp lý ở Việt Nam - Con đường phía trước.

World Bank Group.


Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang (2008). Nghiên cứu khoa học trong quản trị kinh doanh. NXB Thống kê.

Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang (2007). Nghiên Cứu Khoa Học Marketing - Ứng dụng mô hình cấu trúc tuyến tính SEM. NXB Lao Động

Nguyễn Ngọc Kỳ (2016). Một số đặc điểm của thị trường chứng khoán các công ty đại chúng chưa niêm yết. Tạp chí Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, (4/2016), tr.115-117.

Xem tất cả 335 trang.

Ngày đăng: 11/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí