chủ thể của quá trình có một vai trò rất quan trọng trong việc nắm bắt chính xác các vận hội, cũng như thách thức của quá trình toàn cầu hoá.
Toàn cầu hoá là một quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh để thiết lập một trật tự kinh tế mới, một trật tự kinh tế toàn cầu với các lực lượng kinh tế tham gia. Việc thiết lập trật tự kinh tế theo nhưng nguyên tắc những “luật chơi” công bằng và phù hợp sẽ giúp các nước tham gia có điều kiện thuận lợi hơn trong việc phát triển kinh tế, mà cụ thể là chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia cho phù hợp trong một “sân chơi” toàn cầu. Tuy nhiên, toàn cầu hoá là một quá trình đang diễn ra, đang định hình, nó chịu sự tác động rất lớn của các lực lượng kinh tế khác nhau với các nhóm nước, nhóm quốc gia với các lợi ích khác nhau tham gia. Quá trình còn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố an ninh, văn hoá, lịch sử, tôn giáo... Đây là một tiến trình rất phức tạp, rất khó có thể nắm bắt một cách tổng thể, do vậy để có thể tham gia vào quá trình này một cách chủ động, thì trước nhất chúng ta phải có các định chế, các nguyên tắc cơ bản khi tham từng lĩnh vực của “sân chơi” chung, và trong kinh tế, đó chính là những nguyên tắc, những định chế của Tổ chức thương mại thế giới WTO.
Xác định gia nhập WTO là một vấn đề có tính chất quyết định cho Việt Nam trong sự phát triển kinh tế, và cũng là để khẳng sự hội nhập toàn diện của Việt Nam trong một “sân chơi” của kinh tế toàn cầu, với những nguyên tắc cơ bản là mỗi thành viên tham gia đều phải mở cửa thị trường của mình cho các thành viên khác về thương mại hàng hoá, dịch vụ và đầu tư. Để đảm bảo cho việc mở cửa thị trường trên, các nước thành viên phải tuân thủ bốn nguyên tắc thứ nhất là không phân biệt đối xử trong đó có nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN) và nguyên tắc đối xử quốc gia (NT). Thứ hai là thực hiện việc công khai, minh bạch, bình đẳng trong cơ chế chính sách, trong việc tiếp cận thông tin đưa vào chương trình nghị sự vấn đề “Thương mại và phát triển”. Thứ ba thực hiện bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ, nghĩa vụ bảo vệ quyền bảo hộ sở hữu trí tuệ liên quan đến các hoạt động thương mại (TRIPS) và thứ tư là tuân thủ các nguyên tắc tài phán để giải quyết tranh chấp giữa
các thành viên khi tham gia tổ chức thương mại thế giới. Ngoài bốn nguyên tắc trên, các nước thành viên còn phải tham gia hàng chục hiệp định khác cuả tổ chức thương mại và quá trình đàm phán của mỗi quốc gia khi ra nhập WTO là rất phức tạp.
Đối với Việt Nam kể từ 12/1994 Việt Nam chính thức nộp đơn gia nhập WTO trải qua 15 vòng đàm phán đa phương, đàm phán song phương với 28 nước đến 11/1/2007 tức là phải mất 12 năm, chúng ta mới chính thức là thành viên thứ 150 của WTO. Trong bối cảnh hiện nay, việc gia nhập WTO bên cạnh những thuận lợi như được mở cửa thị trường sang 149 nước thành viên, được đối xử bình đẳng trong các quan hệ thương mại, thúc đẩy mạnh đổi mới cơ cấu kinh tế... chúng ta cũng gặp hàng loạt các thách thức như môi trường cạnh tranh sẽ gay gắt hơn, dưới ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hoá dựa trên sự phát triển của lực luợng sản xuất, của khoa học công nghệ thì các nước phát triển hơn có tiềm lực khoa học công nghệ cao hơn, có thể chế kinh tế thị trường phát triển hơn sẽ được hưởng lợi nhiều hơn từ quá trình này. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, nếu không biết vận dụng một cách phù hợp, sáng tạo khi hội nhập có thể sẽ không được hưởng lợi từ quá trình này, mà thậm chí có thể còn gặp nhiều bất lợi. Một vấn đề nữa đặt ra đó là những ảnh hưởng về môi trường, về văn hoá, và an ninh quốc phòng cũng cần phải được quan tâm giải quyết.
Một trong những nhân tố mới không thể không đề cập đến trong bối cảnh mới hiện nay, đó chính là sự phát triển của kinh tế tri thức. Đây chính là lực lượng quan trọng nhất, quyết định sự phát triển theo chiều sâu của hàng hoá khoa học công nghệ cũng như thị trường khoa học công nghệ. Trong nền kinh tế tri thức, tri thức chính là nguồn lực quan trọng nhất tạo ra sự tăng trưởng, và mọi của cải vật chất tinh thần cho xã hội. Với các đặc trưng cơ bản gắn liền với quá trình toàn cầu hoá với sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống hạ tầng thông tin toàn cầu cũng như sự phân công lao đông quốc tế, kinh tế tri thức có quan hệ tương hỗ và gắn bó mật thiết đối với quá trình này, do vậy nó tác động sâu rộng đến sự biến đổi, phát triển của lực lượng
sản xuất cũng như sự biến đổi phát triển của các quan hệ sản xuất. Đối với các nước đang phát triển, kinh tế tri thức với tốc độ hoạt động, biến đổi rất nhanh sẽ tạo ra những thách thức rất lớn về sự tụt hậu xa hơn của các nước này so với các nước phát triển. Tuy nhiên, kinh tế tri thức cũng tạo ra những vận hội, mà nếu như nắm bắt được, các nước đang phát triển dựa trên lợi thế so sánh về nguồn lực con người có thể đi tắt đón đầu, phát triển rút ngắn nhanh chóng khoảng cách đối với các nước phát triển. Chính về nắm bắt được vấn đề này trong các Văn kiện Đại hội Đảng khoá X đã chỉ rõ “đẩy mạnh công nghiệp hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức”; coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng trọng của nền kinh tế; quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá không thể tách rời sự phát triển kinh tế tri thức. Trong đó tập trung phát triển những ngành, những sản phẩm có hàm lượng tri thức và giá trị gia tăng cao. Các sản phẩm, các ngành này dựa trên nguồn lực tri thức của người Việt Nam kết hợp với “ tri thức mới nhất của nhân loại” điều này hoàn toàn phù hợp với chiến lược phát triển khoa học công nghệ của Việt Nam, đặc biệt trong việc phát triển các ngành công nghệ cao, như công nghệ nano, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới... có thể nói, phát triển khoa học công nghê, thị trường khoa học công nghệ gắn với kinh tế tri thức là hai mặt của một qúa trình không thể tách rời trong chiến lươc phát triển công nghiệp hoá hiện đại hoá của đất nước.
Trên đây chính là những nhân tố mới quan trọng nhất tác động trực tiếp đến sự phát triển khoa học công nghệ và thị trường khoa học công nghệ Việt Nam trong tình hình mới. Với việc nắm bắt những vận hội, vượt qua thách thức để có những định hướng những giải cho phù hợp trong việc phát triển khoa học công nghệ, thị trường khoa học công nghệ trong giai đoạn mới.
3.1.2 Một số quan điểm định hướng về phát triển khoa học công nghệ và thị trường khoa học công nghệ trong thời kỳ mới
Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội X vừa qua, về nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của khoa học
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển thị trường khoa học công nghệ ở Việt Nam - 6
- Phát triển thị trường khoa học công nghệ ở Việt Nam - 7
- Phát triển thị trường khoa học công nghệ ở Việt Nam - 8
- Phát triển thị trường khoa học công nghệ ở Việt Nam - 10
- Phát triển thị trường khoa học công nghệ ở Việt Nam - 11
- Phát triển thị trường khoa học công nghệ ở Việt Nam - 12
Xem toàn bộ 100 trang tài liệu này.
công nghệ đã chỉ rõ, “phấn đấu đến 2010 năng lực khoa học công nghệ của nước ta đạt trình độ của các nước tiên tiến trong khu vực trên một số lĩnh vực quan trọng”. Với định hướng rõ ràng và những mục tiêu cụ thể như vậy, Văn kiện cũng đề ra một số nhiệm vụ cụ thể về phát triển khoa học công nghệ trên các lĩnh vực. Tuy nhiên để đạt được mục tiêu đề ra thì phát triển thị trường khoa học công nghệ không chỉ là một tất yếu khách quan mà trong tình hình mới hiện nay theo chúng tôi việc phát triển thị trường khoa học công nghệ cần phải được đặc biệt quan tâm phát triển trên cơ sở những quan điểm chủ đạo sau:
Thứ nhất: Phát triển thị trường khoa học công nghệ phải dựa trên nền tảng là việc phát triển chung về khoa học công nghệ và tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia.
Đây chính là quan điểm quan trọng nhất, sẽ không thể có thị trường khoa học công nghệ, không thể có các sản phẩm khoa học công nghệ, các hàng hoá khoa học công nghệ thực thụ có sức cạnh tranh nếu không có được sự phát triển của khoa học, công nghệ hay nói một cách cụ thể hơn đó chính là sự phát triển từ các nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu triển khai, cho đến nghiên cứu ứng dụng... trong cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.
Đối với phát triển khoa học xã hội, nhiệm vụ đặt ra là phải tiếp tục làm sáng tỏ về lý luận “những nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Xuất phát từ thực tiễn của quá trình đổi mới của đất nước trên 20 năm, căn cứ vào tình hình biến đổi của thế giới và của khu vực vấn đề đặt ra là lý luận phải tiếp tục giải đáp được những vấn mới của kinh tế thị trường, của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Bên cạnh những vấn đề về kinh tế thì khoa học xã hội cũng phải tập chung nghiên cứu giải đáp những vấn đề xã hội khác cũng rất bức xúc như xây dựng nhà nước “ dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, hoạt động trong những nguyên tắc pháp chế chặt chẽ, thống nhất, thông xuốt, đồng thời đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động của cả bộ máy nhà nước, của hệ thống
chính trị từ Trung ương đến cơ sở, xây dựng một nền hành chính sạch, hiệu quả, một nền hành chính phục vụ, một nền hành chính có khả năng thích ứng và tạo điều kiện cho việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững chứ không phải là những rào cản làm chậm tiến trình phát triển của đất nước.
Về phát triển khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ; theo chúng tôi nhà nước cần phải tập trung hơn nữa ngân sách cho nghiên cứu cơ bản, cho các định hướng ứng dụng chiến lược có phạm vi ảnh hưởng lớn, có tiềm năng tạo ra những cuộc cách mạng, những bước nhảy đột phá. Bởi trong tình hình hiện nay, khi mà chế độ chính sách đối với nghiên cứu khoa học, đặc biệt là khoa học cơ bản còn rất hạn chế; hiện tượng chảy máu chất xám trong lĩnh vực này ngày càng gia tăng thì việc định hướng đầu tư mạnh mẽ cho nghiên cứu cơ bản là điều rất cần thiết bởi muốn phát triển được tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia mà không có nghiên cứu cơ bản thì không thể phát triển được. Quan điểm này cũng hoàn toàn phù hợp với những định hướng cơ bản về phát triển khoa học công nghệ trong các văn kiện của đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X vừa qua. Văn kiện khẳng định về đổi mới về cơ chế quản lý khoa học công nghệ, trong đó nhà nước chú trọng đầu tư nghiên cứu những lĩnh vực những ngành quan trọng, nhấn mạnh “chỉ trừ những lĩnh vực như nghiên cứu cơ bản, những nghiên cứu về chiến lược phát triển an ninh quốc phòng” mới lấy kinh phí từ nguồn ngân sách nhà nước. Nghiên cứu cơ bản chính là nền tảng, là bà đỡ cho mọi sự phát triển của khoa học, đặc biệt là phát triển những ứng dụng của khoa học trong việc phát triển các công nghệ mới, những công nghệ đòi hỏi hàm lượng chất xám cao.
Cùng với việc phát triển khoa học xã hội và việc đầu tư cho nghiên cứu cơ bản có tính chiến lược thì việc phát triển những nghiên cứu ứng dụng được xác định trong từng giai đoạn cũng rất quan trọng. Nhà nước cần tập trung vào nghiên cứu ứng dụng đối với những công nghệ cao, công nghệ mũi nhọn trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng..., hoặc những công nghệ trong lĩnh vực sản xuất mà tư nhân không có khả năng. Đồng thời khuyến khích các cá nhân, doanh nghiệp, các doanh nghiệp khoa học công nghệ, các viện nghiên
cứu, các trường đại học... liên kết để nghiên cứu ứng dụng và phát triển những sản phẩm khoa học công nghệ, những hàng hoá khoa học công nghệ có giá trị thương mại cao phục vụ cho mọi ngành kinh tế.
Thứ hai: Phát triển thị trường khoa học công nghệ phải gắn chặt với tiến trình hội nhập quốc tế và hoàn thiện thể chế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
Đây là vấn đề không những có tính thực tiễn, mà còn là một vấn đề bắt buộc phải thực thi vì hiện nay Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO, hơn thế nữa khi lực lượng sản xuất đã được quốc tế hoá một cách sâu sắc, khi thị trường toàn cầu với những nguyên tắc rõ ràng buộc các quốc gia phải tuân thủ thì việc việc phát triển thị trường khoa học công nghệ phải gắn chặt với quá trình hội nhập quốc tế càng là một tất yếu. Không những thế, các hàng hoá khoa học công nghệ, các sản phẩm công nghệ với các đặc thù riêng biệt, với sức lan toả, khả năng biến đổi phát triển nhanh chóng... trên phạm vi toàn thế giới càng khiến chúng ta phải đặt vấn đề một cách hết sức nghiêm túc. Đối với Việt Nam, điều quan trọng nhất khi gắn thị trường khoa học công nghệ với quá trình hội nhập, đó là một mặt phải duy trì được khả năng phát triển của hàng hoá khoa học công nghệ trong nước đồng thời phải lựa chọn được những hàng hoá khoa học công nghệ phù hợp. Song “phù hợp” ở đây không chỉ dừng lại ở mức thích hợp với điều kiện Việt Nam, thích hợp với năng lực khoa học công nghệ hay trình độ, kỹ năng sử dụng của con người Việt Nam hiện tại mà còn ở khía cạnh khác là công nghệ nhập còn có thể thẩm thấu và là tiền đề để chúng ta tiếp thu cải tiến và tạo ra các công nghệ mới, các công nghệ Made in Việt Nam hay không?, những công nghệ 100% “nội sinh” hoặc các công nghệ được phát triển từ những hàng hoá khoa học công nghệ được mua bán, chuyển giao trên thị trường toàn cầu. Đồng thời, các công nghệ đó khi ra đời có được những giá trị thương mại và khả năng cạnh tranh với các sản phẩm tương đương của khu vực và thế giới. Một vấn đề có ý nghĩa rất lớn trong việc lựa chọn công nghệ gắn với quá trình hội nhập nữa là phải nâng cao được nhanh chóng được tiềm
lực công nghệ của các ngành, trong đó quan trọng nhất là phát triển những ngành công nghệ cao mũi nhọn như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ nano, công nghệ vật liệu mới... Bên cạnh đó, để thực hiện việc gắn thị trường khoa học công nghệ cũng như để gắn được tất cả các quá trình khác với tiến trình hội nhập quốc tế sao cho thuận lợi thì trong bối cảnh hiện nay, điều quan trong nhất là chúng ta phải xây dựng bằng được mạng lưới thông tin quốc gia với xa lộ thông tin, đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và trên thế giới để đi tắt đón đầu. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia cần chú trọng vào hai yếu tố là “nhân lực và công nghệ” đây là vấn đề then chốt, quyết định thành công do vậy cần có những bước đi cụ thể và chính xác.
Cùng với việc gắn phát triển thị trường khoa học công nghệ với tiến trình hội nhập quốc tế là việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Ta biết trong nền kinh tế thi trường thì việc hình thành đồng bộ các loại thị trường như thị bất động sản, thị trường chứng khoán, thị trường lao động... là một điều không thể thiếu, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, của lực lượng sản xuất, của khoa học công nghệ ... sẽ dẫn đến việc xuất hiện của thị trường khoa học công nghệ. Vấn đề ở đây là làm thế nào để thị trường khoa học công nghệ được hình thành phát triển một cách mạnh mẽ, thuận lợi và quan trọng hơn nữa việc phát triển của thị trường khoa học công nghệ sẽ tạo ra động lực đầu tầu để thúc đẩy phát triển các thị trường khác, đồng thời thông qua đó phát triển được tiềm lực khoa học công nghệ, phát triển được các sản phẩm khoa học công nghệ, các hàng hoá khoa học công nghệ từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển và tăng cường được năng lực cạnh tranh của cả nền kinh tế. Đối với Việt Nam, tuy nền kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề cả về lý luận và thực tiễn cần phải giải quyết nhưng việc phát triển thị trường khoa học công nghệ vẫn là một tất yếu khách quan. Trong quá trình vừa tạo lập vừa học hỏi, đương nhiên chúng ta sẽ không thể tránh khỏi những bỡ ngỡ, lúng túng. Nhưng để có thể đồng bộ được các yếu tố thị trường, để có thể thực hiện được các cam kết khi đã là
thành viên chính thức của WTO, đồng thời để đảm bảo được sức cạnh tranh của nền kinh tế thì việc phát triển thị trường khoa học công nghệ với các vai trò to lớn của nó như: thúc đẩy nhanh hơn sự lan truyền của tri thức khoa học công nghệ; rút ngắn, kích thích sự phát triển của hoạt động nghiên cứu sáng tạo; gắn việc nghiên cứu ứng dụng khoa học với thực tế sản xuất, kinh doanh... các vai trò này nếu được phát huy toàn diện, chắc chắn việc thị trường khoa học công nghệ sẽ là nhân tố quan trọng không thể thiếu trong việc hoàn thiện chể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Điều này cũng được khẳng định trong Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX trình tại đại hội X do đồng chí Tổng bí thư Nông Đức Mạnh trình bày ngày 18/4/2006 có đề cập đến sự “phát triển đồng bộ có hiệu quả sự vận hành của các loại thị trường” trong đó nhấn mạnh đến việc “phát triển thị trường khoa học và công nghệ”
Thứ ba: Nhà nước là chủ thể quan trong nhất trong việc phát triển thị trường khoa học công nghệ
Trong phần kinh nghiệm phát triển thị trường khoa học công nghệ ở các nước và các nhân tố ảnh hưởng đến việc phát triển của thị trường khoa học công nghệ, chúng tôi đã đề cập đến bốn tác động cơ bản của chính phủ do vậy không nhắc lại. Ở đây, trong phần quan điểm này, chúng tôi chỉ làm rõ thêm những tác động đó để khẳng vai trò của nhà nước, của chính phủ với việc phát triển thị trường khoa học công nghệ nhất là đối với Việt Nam trong điều kiện hiện nay. Ta biết thị trường khoa học công nghệ ở Việt Nam mới ở mức manh nha do vậy mọi vấn đề từ việc thiết lập hệ thống luật pháp như thế nào? việc quản lý điều hành ra sao? Việc sử dụng các công cụ điều tiết về tài chính tín dụng đối với thị trường này ở mức nào là hợp lý?... đều là những công việc không ai khác mà chính là nhà nước, chính phủ phải làm. Không những thế, để có thể phát triển được thị trường khoa học công nghệ một mình nhà nước không thể đảm đương nổi do vậy cần đa dạng hoá các chủ thể tham gia vào các hoạt động khoa học công nghệ, bằng cách huy động mọi thành phần kinh tế trong việc tham gia các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng phát
triển khoa học công nghệ, hợp tác quốc tế trong việc phát triển khoa học công nghệ và thị trường KHCN. Nhưng muốn làm được điều này thì nhà nước vẫn phải có hệ thống pháp luật để điều tiết và tạo điều kiện cho các chủ thể tham gia một cách thuân lợi và có hiệu quả. Trong đó đặc biệt là tạo lập được hệ thống pháp luật, hệ thống hỗ trợ kỹ thuật, tài chính, pháp lý... cho việc đẩy mạnh đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp. Bởi xét ở góc độ tổng thể, để nâng cao được sức cạnh tranh, trong một môi trường năng động và khốc liệt như hiện nay, điều quan trong nhất là doanh nghiệp phải nâng cao được tiềm lực khoa học công nghệ của mình từ đó mới nâng cao được uy tín, thương hiệu cũng như năng lực cạnh tranh của hàng hoá sản xuất để có thể tồn tại và phát triển . Việc trợ giúp này đối với các doanh nghiệp của chúng ta hiện nay lại càng cần thiết, ngoại trừ các tổng công ty là những đơn vị có tiềm lực về tài chính và khoa học công nghệ tương đối so với các đối thủ cùng loại trong khu vực, còn lại phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chủ yếu là những doanh nghiệp vừa và nhỏ có năng lực tài chính hạn hẹp, tiềm lực khoa học công nghệ rất thấp, trình độ đàm phán trong việc mua bán, chuyển giao công nghệ... đặc biệt là đối với các đối tác nước ngoài còn rất hạn chế đương nhiên việc hỗ trợ của nhà nước, cũng như việc hoạt động trong một môi trường thể chế được hoạch định tốt sẽ giúp doanh nghiệp rất nhiều trong việc đổi mới công nghệ của mình.
Một vấn đề nữa khi khẳng định vai trò của nhà nước là nhân tố quan trọng nhất trong việc phát triển khoa học công nghệ đó chính là việc sử dụng được nguồn nhân lực khoa học công nghệ, sẽ không thể có thị trường khoa học công nghệ phát triển nếu không có được điều này. Để có được nguồn nhân lực khoa học công nghệ phục vụ quá trình phát triển thì các chính sách “trọng dụng nhân tài” trong đó đặc biệt chú ý là sử dụng được các nhà khoa học, những chuyên gia đầu ngành như các tổng công trình sư, các kỹ sư trưởng, các kỹ thuật viên lành nghề.... là điều có ý nghĩa quyết định muốn làm được điều này không ai khác cũng chính là nhà nước. Nhà nước phải có được cơ chế chính sách phù hợp để thu hút được những nhà khoa học giỏi, cả
trong và ngoài nước, để họ yên tâm có được môi trường thuận lợi để phát huy được tài năng, không để tái diễn tình trạng chảy máu chất xám ở cả hai phương diện ra nước ngoài hoặc chuyển nghề đây là một sự lãng phí rất lớn làm sâu sắc thêm tình trang thiếu hụt nguồn nhân lực KHCN của Việt Nam hiện nay. Đối với trí thức Việt kiều, đây là đội ngũ rất đông đảo, sẵn có lòng yêu nước và luôn hướng về Tổ quốc, luôn mong muốn cho đất nước được thịnh vượng, được phát triển; họ lại là đội ngũ được tiếp xúc và làm việc tại các nước tiên tiến, các môi trường làm việc hiện đại nhất trên thế giới. Do vậy, với chính sách đại đoàn kết dân tộc, cùng các chính sách phù hợp Nhà nước có thể huy động được cao độ nguồn lực này, từ đó sẽ tạo ra được một động lực hết sức to lớn trong việc thực hiện chiến lược phát triển KHCN cũng như thị trường khoa học công nghệ của Việt Nam.
Một nhân tố nữa khẳng định vai trò của nhà nước là để phát triển được thị trường khoa học công nghệ, không thể thiếu được việc đảm bảo thực thi các văn bản pháp luật của nhà nước, đây chính là tính pháp chế. Một văn bản nếu không được thực thi đầy đủ sẽ không thể mang lại được kết quả như mong muốn. Nhà nước với các công cụ, và bộ máy hành pháp, tư pháp và các thiết chế định sẵn sẽ là chủ thể duy nhất trên lãnh thổ Việt Nam có quyền bảo hộ quyền về sở hữu trí tuệ đối với các hoạt động sáng tạo, các công trình khoa học... xử lý và đảm bảo thực thi việc bảo hộ bằng các biện pháp dân sự, hành chính, hình sự đối với các hành vi vi phạm quyền về sở hữu trí tuệ. Đây là điều rất quan trong bởi không thực hiện được việc bảo hộ trong lĩnh vực này sẽ làm triệt tiêu động lực sáng tạo ra các sản phẩm khoa học công nghệ của tất cả các chủ thể khi tham gia thị trường.
3.2 Một số giải pháp cơ bản khắc phục những tồn tại trong việc phát triển thị trường khoa học công nghệ ở Việt Nam
3.2.1 Các giải pháp chung
3.2.1.1 Nâng cao nhận thức về ý nghĩa to lớn của việc phát triển khoa học công nghệ, thị trường khoa học công nghệ:
Đây là vấn đề rất quan trọng, nếu không có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc xây dựng, phát triển tiềm lực khoa học công nghệ cũng như thị trường khoa học công nghệ thì không thể có những động lực trong việc tiếp thu, đổi mới cũng như việc cải tiến phát triển công nghệ. Vấn đề lớn nhất trong việc nâng cao nhận thức đó là:
Thứ nhất đối với các cơ quan quản lý nhà nước, trên cơ sở Luật khoa học công nghệ năm 2000, Chiến lược phát triển khoa học công nghệ đến năm 2010, việc phát triển thị truờng khoa học công nghệ theo định hướng Đại hội Đảng lần thứ X, phải làm cho tất cả các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương nhận thấy rõ được vai trò và ý nghĩa của vấn đề này. Muốn vậy đầu tiên và cũng là điểm mấu chốt là phải làm cho đội ngũ lãnh đạo cao nhất của các cơ quan được quán triệt sâu sắc ý nghĩa của vấn đề. Cùng với việc nâng cao nhận thức của lãnh đạo thì phải có cơ chế chính sách để có thể nâng cao nhận thức của toàn bộ cán bộ, công chức trong cả các cơ quan hành chính sự nghiệp cũng như các cơ quan sự nghiệp có thu của Nhà nước. Tiếp đó thông qua thực tiễn từ cơ quan nhà nước đã đạt được hiệu quả trong việc ứng dụng và phát triển khoa học công nghệ, để làm thước đo, là điển hình để nhân rộng cho các cơ quan khác.
Thứ hai đối với các doanh nghiệp, đây chính là điểm quan trọng nhất bởi khoa học công nghệ, ứng dụng công nghệ một cách có hiệu quả chính là yếu tố sống còn của mối doanh nghiệp. Song hiện nay qua việc phân tích về tình hình đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp cũng như tình trạng công nghệ nói chung của các doanh nghiệp ở trên, có thể thấy vấn đề nhận thức về khoa học công nghệ, việc tham gia thị trường khoa học công nghệ để nắm bắt các công nghệ mới đặc biệt các doanh nghiệp ngoài nhà nước, các doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất hạn chế. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ không những hạn chế về vốn, mà trình độ của các chủ doanh nghiệp, các lao động trong doanh nghiệp cũng rất hạn chế, đây cũng chính là nguyên nhân khách quan khiến cho nhận thức về đổi mới công nghệ còn rất yếu. Về phía chủ quan, một số doanh nghiệp thực sự còn coi việc đổi mới công nghệ chưa phải là
yếu tố cấp thiết, chưa coi việc cạnh tranh đến mức phải có những chiến lược, sách lược cụ thể để đổi mới công nghệ những doanh nghiệp này chủ yếu dựa trên kinh nghiệm của lãnh đạo mà chưa có được tầm nhìn chiến lược cũng như sự hiểu biết thực sự về sự phát triển của khoa học công nghệ trong ngành sản xuất, kinh doanh mà doanh nghiệp tham gia. Để giải quyết vấn đề nhận thức vấn đề này vấn đề mấu chốt là phải có những cơ chế, chính sách, phương pháp hỗ trợ hiệu quả các doanh nghiệp chưa nhận thức đầy đủ đồng thời tăng cường xúc tiến, quảng bá các công nghệ thuộc các ngành lĩnh vực mà doanh nghiệp quan tâm qua các hội chợ công nghệ đối với các doanh nghiệp này.
Thứ ba là nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vai trò của khoa học công nghệ, về việc phát triển thị trường khoa học công nghệ, tổ chức tuyên truyền làm rõ về chủ chương chính sách của nhà nước cũng như tầm quan trọng và ý nghĩa chiến lược trong việc phát triển khoa học công nghệ và thị trường khoa học công nghệ đối với mọi tầng lớp nhân dân. Đặc bịêt là phải giáo dục nhận thức về phát triển khoa học công nghệ trong học sinh, sinh viên. Phải xây dựng được những ước mơ, hoài bão mạnh mẽ của cả học sinh, sinh viên cũng như của cả đội ngũ tri thức, đội ngũ các nhà khoa học trong việc vươn lên chiếm lĩnh những đỉnh cao của khoa học, công nghệ trong khu vực cũng như trên thế giới. Phải coi đây là một trận chiến để có thể giành được sự độc lập, tự chủ thực sự của dân tộc của đất nước trong giai đoạn mới, giai đoạn mà khoa học công nghệ là yếu tố quan trong nhất quyết định sự phát triển hay tụt hậu, sự thịnh vượng hay suy vong cũng như vị thế lãnh đạo của các quốc gia trên thế giới.
3.2.1.2 Tiếp tục đổi mới cách thức quản lý của nhà nước, bổ sung hoàn thiện các chính sách, pháp luật về khoa học công nghệ và thị trường khoa học công nghệ.
a) Để tiếp tục đổi mới cách thức quản lý của nhà nước trong việc phát triển khoa học công nghệ, thị trường khoa học công nghệ đầu tiên cần:
* Đổi mới mới cách thức quản lý nhà nước đối với các tổ chức khoa học công nghệ. Theo số liệu của Hội liên hiệp khoa học kỹ thuật Việt Nam cả nước có khoảng 1200 tổ chức nghiên cứu khoa học công nghệ, trong đó có 60% thuộc cơ quan đơn vị nhà nước, đây là một lực lướng rất lớn. Tuy nhiên, những sản phẩm khoa học công nghệ rất hạn chế. Qua thực tế các hội chợ khoa học công nghệ được tổ chức các năm gần đây, rất ít có những hợp đồng nghiên cứu phát triển công nghệ được ký kết giữa các doanh nghiệp với các tổ chức khoa học công nghệ. Các doanh nghiệp đến hội chợ chủ yếu để mua máy móc thiết bị công nghệ có sẵn. Bên cạnh việc hạn chế trong chủng loại hàng hoá, các tổ chức khoa học công nghệ cũng rất hạn chế trong việc chủ động trong việc nghiên cứu thị trường, chủ động trong việc “gõ cửa” các doanh nghiệp để giới thiệu bán các sản phẩm, cũng như việc hợp tác nghiên cứu cùng các doanh nghiệp để cải tiến, phát triển và tạo ra các công nghệ mới, các sản phẩm mới. Một thực trạng đáng buồn nữa, mặc dù đã có cơ chế và những quy định chuyển đổi từ tổ chức khoa học công nghệ sang doanh nghiệp khoa học công nghệ để nâng cao tính chủ động và để xoá bỏ dần tình trạng bao cấp đối với các tổ chức này, song tiến trình này còn chậm. Nhiều tổ chức ngại chuyển đổi chủ yếu vẫn trông chờ vào các chương trình nghiên cứu được đầu tư bằng nguồn ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, tính hiệu quả và thực tế của các chương trình này phụ thuộc ngay từ khi tuyển chọn các chương trình, cơ quan, tổ chức khoa học công nghệ thực hiện chương trình, việc tổ chức thực hiện chương trình, rồi quá trình thẩm định, quá trình triển khai thực tế... Trong điều kiện Việt Nam đang rất thiếu các chuyên gia đầu ngành có trình độ quốc tế, đương nhiên quá trình thẩm định sẽ khó đạt được kết quả cao... Để giải quyết vấn đề này, việc đổi mới công tác quản lý của nhà nước đối với các tổ chức khoa học công nghệ cần tập trung vào những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất việc đầu tư ngân sách cho các chương trình nghiên cứu khoa học phải dựa trên cơ sở thực tiễn để xác định chính xác được ngay từ “đầu vào” lựa chọn đề tài gì, đối với một số lĩnh vực có thể mời các nhà tư vấn,
các chuyên gia nước ngoài trong việc tư vấn lựa chọn đề tài, tiếp đó phải có cơ chế lựa chọn được tổ chức khoa học công nghệ phù hợp gắn được trách nhiệm trong việc tiếp nhận nguồn ngân sách và chất lượng đề tài nghiên cứu. Tiếp đó phải có cơ chế giám sát quá trình thực hiện đề tài, quá trình thẩm định nghiệm thu phải thật khách quan nếu cần thiết có thể mời những chuyên gia, những tổ chức có uy tín nước ngoài vào thẩm định để đánh giá nghiệm thu đề tài.
Thứ hai đẩy nhanh hơn việc thực hiện Nghị định: 115/2005/NĐ-CP về việc chuyển đổi các tổ chức khoa học công nghệ sang hình thức doanh nghiệp khoa học công nghệ. Có chính sách hỗ trợ phù hợp về tài chính cho các đơn vị chuyển đổi, chính sách sắp xếp các lao động dôi dư khi chuyển đổi, các chính sách về sát nhập, giải thể phù hợp với các tổ chức này khi chuyển đổi. Bên cạnh việc thực hiện các biện pháp trên khi chuyển đổi các tổ chức khoa học thành doanh nghiệp, một điều mấu chốt nữa là phải sắp xếp được một bộ máy lãnh đạo có trình độ quản lý, có năng lực kinh doanh bên cạnh khả năng chuyên môn về ngành lĩnh vực hoạt động.
Thứ ba: Nghiên cứu các mô hình chuyển đổi các tổ chức khoa học thành công của nước ngoài, tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp khoa học công nghệ sau khi chuyển đổi, lựa chọn một số doanh nghiệp khoa học công nghệ đưa lên sàn giao dịch chứng khoán vừa để thí điểm vừa để tạo cú huých và để huy động vốn. Tiến hành nghiên cứu, bỏ dần cơ quan chủ quản, thành lập mô hình công ty mẹ, con đối với với các doanh nghiệp khoa học công nghệ chuyển đổi.
*Đổi mới cách thức quản lý hành chính của các cơ quan nhà nước đối với việc phát triển khoa học công nghệ và thị trường khoa học công nghệ:
Thứ nhất: Phân định rõ chức năng quản lý hành chính nhà nước về khoa học công nghệ, và chức năng nghiên cứu khoa học, đối với đơn vị tổ chức khoa học công nghệ có thu, hoặc các doanh nghiệp khoa học do chuyển
đổi cần làm rõ chức năng quản lý hành chính và chức năng sản xuất kinh doanh.
Thứ hai: Đối với thị trường khoa học công nghệ đang sơ khai cần thiết lập nhanh chóng đồng bộ các yếu tố thị trường cùng các cách thức quản lý đặc thù, để khi Luật chuyển giao công nghệ có hiệu lực 1/7/2007 sẽ tạo được sự vận hành thông suốt như các thị trường truyền thống khác.
b)Về ban hành các văn bản pháp luật
Mặc dù trong thời gian qua, Quốc hội, Chính phủ, các bộ đã có nhiều cố gắng đáng ghi nhận trong việc xây dựng luật về phát triển khoa học công nghệ và thị trường khoa học công nghệ. Trong đó rất đáng ghi nhận là việc ra đời của Bộ luật hình sự năm 1999 với các điều khoản liên quan đến các tội phạm về làm hàng giả, việc vi phạm quyền sở hữu công nghiệp... tiếp đó là Luật khoa học công nghệ năm 2000, Luật sở hữu trí tuệ 2005, Bộ luật dân sự năm 2005. Trong Bộ luật dân sự mới này, đã có những bổ sung, sửa đổi cho phù hợp liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, các vấn đề về chuyển giao công nghệ, và mới đây nhất là Luật tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật và Luật chuyển giao công nghệ vừa được Quốc hội thông qua tháng 6/2006 và tháng 11/2006, cùng với đó là hàng loạt các pháp lệnh, nghị định, thông tư hướng dẫn liên quan, về cơ bản đã tạo lập được một khung pháp lý trong việc phát triển khoa học công nghệ và thị trường khoa học công nghệ. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật của Việt Nam nói chung và về vấn đề này nói riêng vẫn còn nhiều điều bất cập. Việc ban hành các văn bản dưới luật còn chậm, có những văn bản dưới luật còn chồng chéo, không những thế do nền kinh tế đang phát triển, nhiều nhân tố mới xuất hiện, do vậy pháp luật không điều chỉnh kịp dẫn đến một số văn bản thiếu tính khả thi. Tính chuyên nghiệp trong việc xây dựng pháp luật còn yếu vì vậy tính ổn định của các đạo luật chưa cao. Một vấn đề lớn nữa kể từ ngày 11/1/2007 Việt Nam chính thức ra nhập WTO do vậy một số đạo luật ra đời trước đó, kể cả luật sở hữu trí tuệ chắc chắn sẽ phải có những điều chỉnh từ những vấn đề trên chúng cần thực hiện các giải pháp sau: