Cơ Hội Và Thách Thức Đối Với Một Nền Kinh Tế Khi Quyết Định Mở Cửa Hội Nhập Thị Trường Dịch Vụ Tài Chính – Lĩnh Vực Ngân Hàng


hành chính trên toàn quốc. Ngoài ra, các chính sách và quy định bảo đảm hoạt động an toàn của các TCTD được xây dựng trên cơ sở và tuân thủ theo các tiêu chuẩn quốc tế. Các công cụ trực tiếp sử dụng để điều hành chính sách tiền tệ được thay thế bằng các công cụ gián tiếp phù hợp với cơ chế thị trường.

Các ngân hàng và TCTD đang thực hiện chương trình hiện đại hoá bằng cách sử dụng các công nghệ mới và cập nhật các dịch vụ và sản phẩm, do đó nối mạng toàn hệ thống để đạt được việc thực hiện giao dịch một cửa. Kết quả là các dịch vụ của các ngân hàng Việt Nam trở nên đa dạng hơn, phù hợp với các hiệp định song phương, như Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa kỳ, Hiệp định chung về Thương mại và Dịch vụ, xúc tiến và bảo vệ đầu tư; và các cam kết khác ký kết trong nội bộ các tổ chức đa phương như ASEAN, ASEAN+3, APEC, và sắp tới là WTO.


1.2.2.Cơ hội và thách thức đối với một nền kinh tế khi quyết định mở cửa hội nhập thị trường dịch vụ tài chính – lĩnh vực ngân hàng

Mở cửa hội nhập thị trường dịch vụ tài chính đem lại cả cơ hội lẫn thách thức, đòi hỏi một quốc gia phải triển khai những bước chuẩn bị cần thiết để đảm bảo tối ưu hoá những thuận lợi và giảm thiểu những nguy cơ của việc tham gia vào nền kinh tế thế giới ngày càng được tự do hoá nhiều hơn.

a) Cơ hội

Mở cửa hội nhập thị trường dịch vụ tài chính sẽ mang đến cho một nền kinh tế những nguồn lực mới và cơ hội mới để mở rộng thị trường vốn, đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ tài chính, các mối quan hệ kinh tế – thương mại, tăng khả năng thu hút đầu tư nước ngoài... giúp quốc gia này tham gia vào việc xây dựng một hệ thống tài chính quốc tế đa biên bình đẳng, không phân biệt đối xử và cùng có lợi. Tạo môi trường thông thoáng minh bạch, tuân thủ các nguyên tắc quốc tế. Sự phát triển của công nghệ thông tin cũng như kinh nghiệm tổ chức quản lý của khu vực và quốc tế sẽ giúp các định chế tài chính trong nước có điều kiện để hoàn thiện, nâng cao chất lượng


cũng như đa dạng hóa các dịch vụ tài chính để có thể đáp ứng được yêu cầu của hệ thống thương mại mang tính toàn cầu.

Khi một quốc gia muốn mở cửa hội nhập thị trường dịch vụ tài chính thì quốc gia này bao giờ cũng phải tham gia cam kết một số các điều ước quốc tế. Việc ký kết một số điều ước quốc tế quan trọng này đã tạo ra một hành lang pháp lý cơ bản cho việc thực hiện công cuộc đổi mới hội nhập kinh tế quốc tế, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, thúc đẩy kinh tế phát triển và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đây là yếu tố không thể thiếu để tạo dựng niềm tin của các nhà đầu tư, thương nhân nước ngoài tham gia các hoạt động hợp tác kinh tế với một quốc gia.

b) Thách thức

Bên cạnh những cơ hội, việc mở cửa hội nhập thị trường dịch vụ tài chính cũng đặt ra hàng loạt những thách thức cho một nền kinh tế xã hội trên các khía cạnh: sức ép cạnh tranh lớn đối với các doanh nghiệp trong nước, nguồn thu Ngân sách Nhà nước bị ảnh hưởng trực tiếp từ việc cắt giảm thuế nhập khẩu theo lộ trình đã cam kết. Đặc biệt cạnh tranh trong nhiều ngành dịch vụ quan trọng như ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm sẽ tăng đáng kể sau khi gia nhập WTO. Các cuộc cạnh tranh về chất lượng, giá cả dịch vụ sẽ khốc liệt hơn trong khi năng lực cạnh tranh trong nước còn yếu. Quốc gia quyết định mở cửa hội nhập thị trường dịch vụ tài chính còn phải điều chỉnh hệ thống pháp luật cho phù hợp với các quy định của WTO ở nhiều lĩnh vực khác nhau.

Các nước gia nhập WTO đều phải cam kết “ràng buộc thuế quan”. Chính sách thuế sẽ phải điều chỉnh theo quy định của WTO, trước hết là thuế xuất nhập khẩu, tiếp đến là các sắc thuế nội địa. Thuế suất thuế nhập khẩu điều chỉnh theo hướng ngày càng giảm và đảm bảo nguyên tắc MFN (không phân biệt đối xử giữa hàng nhập khẩu từ các quốc gia khác nhau); Bỏ các biện pháp phi thuế, chỉ bảo hộ bằng công cụ thuế. Những điều đó không những có nhiều tác động khác nhau (cả tiêu cực và tích cực) đến môi trường kinh doanh mà còn ảnh hưởng đến nguồn thu NSNN. Các khoản thu từ thuế nhập khẩu chỉ được thu ở mức độ bảo hộ cần thiết, không thu cao nhằm mục đích thu ngân sách.


Khi một quốc gia cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ tài chính (ngân hàng; bảo hiểm; chứng khoán; kế toán, kiểm toán và tư vấn tài chính), phải có các cam kết đối xử bình đẳng giữa các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ tài chính trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Việc thực hiện các cam kết này đòi hỏi nỗ lực lớn của ngành tài chính nói riêng cũng như các cơ quan quản lý nhà nước. Đặc biệt, nếu một quốc gia còn trong bối cảnh hệ thống luật pháp, chính sách chế độ quản lý trong nước còn thiếu đồng bộ, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, còn nhiều lĩnh vực còn chưa có văn bản quy định như tư vấn môi giới tài chính, tư vấn thuế... thì đây thực sự là một thách thức đòi hỏi rất nhiều nỗ lực của quốc gia này.

Về phía doanh nghiệp nếu còn yếu kém trên nhiều lĩnh vực (chất lượng , thương hiệu sản phẩm, phát triển kênh tiêu thụ và khả năng giải quyết tranh chấp), thì các doanh nghiệp này sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức trong việc tìm chỗ đứng trên thị trường hoặc phát triển thị phần của mình. Nhiều doanh nghiệp sẽ có nguy cơ phá sản trước các sức ép nặng nề của các dòng hàng hoá, dịch vụ, công nghệ, nhân lực và các chấn động khủng hoảng trong khu vực và toàn cầu, nhất là các cuộc khủng hoảng về tài chính tiền tệ gây hiệu ứng lan truyền.

Cải cách và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường mở cửa hội nhập không những là yêu cầu bắt buộc mà còn là đòn bẩy cho sự phát triển thị trường tài chính và dịch vụ tài chính: Chính sách và thực tế chi tiêu của Chính phủ cần phải công khai, minh bạch theo đúng thông lệ quốc tế; Tăng cường kiểm soát chi, đảm bảo chi NSNN tiết kiệm, hiệu quả; Đổi mới chế độ kế toán, kiểm toán, thanh tra tài chính, chế độ báo cáo thông tin, bảo đảm hoạt động kinh doanh phải công khai, minh bạch; Nâng cao năng lực và hiệu quả giám sát tài chính, đảm bảo lành mạnh hoá tài chính và an ninh tài chính quốc gia trong tiến trình hội nhập.

Một nền kinh tế có thị trường dịch vụ tài chính mở cửa, hội nhập cần thiết phải đẩy mạnh xúc tiến thương mại ở cấp Chính phủ, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức, định chế tài chính xúc tiến ở thị trường ngoài nước để có định hướng chiến lược lâu dài cho các doanh nghiệp. Xây dựng chiến lược đào tạo dài hạn để có một lực


lượng chuyên viên và cán bộ quản lý có trình độ cao thích ứng với đòi hỏi của hội nhập thị trường tài chính. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục về cạnh tranh quốc tế nhằm ngăn chặn các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và giám sát các hành vi lạm dụng ưu thế trên thị trường. Tăng cường phát triển các mối quan hệ hợp tác liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp thông qua các tổ chức hiệp hội, tạo sức mạnh của cộng đồng các doanh nghiệp trong cạnh tranh với đối tác nước ngoài.

1.2.3. Quá trình cải cách và mở cửa thị trường dịch vụ tài chính của Trung Quốc

– Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Sau khi gia nhập vào Tổ chức thương mại thế giới – WTO, những nghĩa vụ mà Trung Quốc cam kết phải thực thi đã tạo ra nhiều lo ngại.

Thiệt hại nặng nề nhất mà Trung Quốc phải gánh chịu sau khi trở thành thành viên chính thức của WTO đó là sự đổ vỡ của hệ thống doanh nghiệp Nhà nước. Khu vực DNNN của Trung Quốc vốn theo mô hình kế hoạch hóa đã được chuyển đổi sang hệ thống thị trường cạnh tranh song vẫn chưa thành công. Do vậy, khi Trung Quốc mở cửa nền kinh tế và cho phép giá được xác định bởi thị trường thì giá hàng công nghiệp đã giảm xuống. Vì vậy tới thập niên 1990, hàng ngàn DNNN đã làm ăn thua lỗ. Và mặt trái của tình trạng thua lỗ của các DNNN này chính là tổn thất to lớn của hệ thống ngân hàng Trung Quốc.

Chính phủ Trung Quốc đã phải trợ cấp cho các DNNN thua lỗ này bằng nhiều cách khác nhau, từ trợ giá trực tiếp đến cho vay (không hoàn trả) từ phía các ngân hàng quốc doanh. Ngoài ra, tình trạng thua lỗ của các DNNN còn dẫn đến các món nợ xấu rất lớn trong bảng cân đối tài chính của các NHTMNN Trung Quốc. Mặc dù đã tìm nhiều cách giải quyết vấn đề nợ xấu song đến cuối năm 2001, tỷ lệ nợ xấu của các NHTM Trung Quốc vẫn rất cao, khoảng 30,4% tổng dư nợ. Nếu tính cả các món nợ xấu tại các TCTD trong cả nước, tổng số nợ không trả được và sẽ gây thiệt hại cho ngân hàng có thể lên tới 70% GDP. Tuy nhiên, vì sợ làm tăng mức thất nghiệp, ngân hàng không dám mạnh tay tái cấu trúc hoặc thanh lý các công ty con nợ. Như vậy, chính phủ đã thông qua việc bù lỗ các ngân hàng hay tài trợ cho các công ty quản lý tài


chính sản, tiếp tục bao cấp cho các DNNN yếu kém, thua lỗ. Tình trạng này khiến cho cả hệ thống doanh nghiệp lẫn ngân hàng yếu kém.

Trong thực trạng như vậy, việc gia nhập WTO sẽ cho phép các ngân hàng nước ngoài hoạt động tự do ở Trung Quốc trong vòng một vài năm. Hệ quả đang lo ngại là khi các ngân hàng nước ngoài được bình đẳng với ngân hàng trong nước, sự cạnh tranh trong thị trường trường ngân hàng sẽ tăng. Bên cạnh việc năng suất thấp do công nghệ và trình độ nghiệp vụ còn lạc hậy, các ngân hàng này phải duy trì hệ thống chi nhánh trên cả lãnh thổ Trung Quốc và phải xử lý các tài khoản nhỏ của số khách hàng cá thể rất đông nên chi phí hành chính rất cao. Nếu các ngân hàng nước ngoài thay thế các ngân hàng trong nước thì Trung Quốc sẽ không còn khả năng sử dụng hệ thống ngân hàng để cấp vốn cho các DNNN và sẽ chỉ có thể tài trợ thâm hụt ngân sách nếu trả lãi suất đủ cao để hấp dẫn khu vực tư nhân mua trái phiếu. Thêm vào đó, các ngân hàng nước ngoài có thể không muốn tập trung chủ yếu vào hoạt động ngân hàng bán lẻ với hàng triệu người giử tiền nhỏ lẻ mà tập trung vào các đối tượng vay tiền lớn và giàu có nhất. Điều này có thể làm thiệt hại nghiêm trọng đến nền tảng then chốt của các ngân hàng trong nước mà không phải dành lấy phần lớn hoạt động của các NHTMNN Trung Quốc. Như thế, Chính phủ Trung Quốc sẽ phải tiếp tục trợ cấp cho hệ thống ngân hàng ngày càng yếu kém và tiếp tục tạo ra thâm hụt ngân sách.

Trong bối cảnh đó, Chính phủ Trung Quốc đã có những thay đổi sâu sắc từ các chính sách vĩ mô đến các biện pháp cải tổ nhằm giúp nền kinh tế Trung Quốc và đặc biệt là hệ thống ngân hàng Trung Quốc có được sự phát triển bền vững.

a) Thay đổi sâu sắc các chính sách vĩ mô

Chính sách kinh tế đã liên tục được thay đổi theo hướng nới lỏng ngày càng nhiều hơn sự kiểm soát của chính phủ đối với thị trường, bắt đầu từ khu vực nông nghiệp cách đây hơn 20 năm, sau đó mở rộng sang công nghiệp rồi cuối cùng là khu vực dịch vụ.

Ba năm sau khi gia nhập WTO, Nhà nước Trung Quốc đã sửa đổi hơn 2500 pháp luật pháp quy, trong đó bao gồm Luật Đầu tư nước ngoài, Luật Ngoại thương.


Một trong những chính sách điều tiết vĩ mô của nhà nước Trung Quốc mang lại hiệu quả cao trong công cuộc cải tổ nền kinh tế là chính sách tài chính tiền tệ, đặc biệt là chính sách hối đoái. Sau khi Trung Quốc trở thành thành viên của WTO, Trung Quốc sẽ buộc phải quản lý tủ giá hối đoái một cách linh hoạt hơn. Nói cách khác nó sẽ được nới lỏng bên độ dao động và sẽ được thả nổi hoàn toàn cùng với việc Trung Quốc thực hiện đầy đủ các cam kết về tự do hóa thương mại, đặc biệt là tự do hóa tài chính trong khuôn khổ WTO. Tuy nhiên, sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc đã nhiều lần tuyên bố sẽ giữ ổn định giá trị đồng NDT so với đồng đô la Mỹ trong một thời gian dài (mức 1 USD = 8,277 NDT). Trong bối cảnh đồng đô la Mỹ đang có xu hướng giảm giá so với các đồng tiền mạnh khác trên thị trường tài chính quốc tế, điều đó khiến cho đồng NDT được định giá thấp hơn giá trị thực của nó. Đồng thời, điều này cũng khiến cho hàng hóa và dịch vụ của Trung Quốc có sức cạnh tranh hơn trên thị trường quốc tế.

b) Cải tổ to lớn hệ thống ngân hàng

Điều quan ngại của chính quyền trong việc tiến tới một tỉ giá hối đoái linh hoạt hơn có lẽ do lo lắng ngân hàng dễ bị tác hại bởi các khoản vay nước ngoài và bởi sự yếu kém của hệ thống này. Tuy nhiên, công việc cải tổ được tiến hành một cách mạnh mẽ.

Các ngân hàng đã bắt đầu hiện đại hóa các phương pháp cho vay và quản lý rủi ro. NHNN đưa vào áp dụng phương pháp tính toán cân đối phân tán rủi ro và hệ thống phân loại nợ quá hạn cho các ngân hàng. Nhà đầu tư nước ngoài được phép tham gia vốn ở 12 ngân hàng cổ phần loại 2. Công cuộc cải tổ ngân hàng đã thành công.

Từ 2000 trở đi, các khoản cho vay từ các ngân hàng có chất lượng tốt hơn. Với việc cải tổ hạ tầng cơ sở hệ thống ngân hàng, chính phủ đã bắt tay vào chiến lược tái xác định lại vốn của các ngân hàng lớn và chuẩn bị niêm yết các ngân hàng lên thị trường chứng khoán. Quá trình thiết lập hệ thống ngân hàng vững mạnh đã tiến hành thành công ở hai ngân hàng lớn và đang bắt đầu với ngân hàng thứ ba.

Tháng 7-2005, Chính phủ Trung Quốc đã đánh giá lại giá trị của đồng NDT cùng với thay đổi liên quan đến sắp xếp tỉ giá hối đoái, cho phép Trung Quốc linh động


hơn trong việc kìm hãm lạm phát trên thị trường sản phẩm và tài sản. Bằng cách này, sức mạnh thị trường sẽ đóng vai trò hơn nữa trong việc xác định lãi suất ngân hàng của nền kinh tế Trung Quốc.

c) Tái cơ cấu bộ máy Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (the People’s Bank of China - PBC):

PBC thực sự đã có nhiều cải cách quan trọng về tổ chức bộ máy nhằm thích ứng với sự thay đổi mạnh mẽ của môi trường hoạt động bên ngoài, hệ quả tích cực của công cuộc cải cách, mở cửa và hội nhập. Mô hình tổ chức hiện tại của PBC được cho là hiệu quả, hiệu lực, góp phần quan trọng hoàn thành tốt các chức năng, nhiệm vụ của mình trong bối cảnh mới. Những cải tổ trong bộ máy của PBC cụ thể như:

- PBC quyết định thành lập mạng lưới chi nhánh khu vực và các sở giao dịch đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp về nghiệp vụ của các vụ, cục tại Trụ sở chính, thay thế cho số các chi nhánh cấp tỉnh, thành phố có trước đây. Việc làm này xuất phát từ 2 lý do chủ yếu là: (1) tăng cường tính tập trung thống nhất trong chỉ đạo điều hành của NHTW bởi môi trường hoạt động đã thay đổi cơ bản; (2) tránh sự can thiệp chính trị thái quá của các cấp chính quyền địa phương vào hoạt động NH.

- Việc tách bỏ chức năng giám sát ngân hàng (theo nghĩa rộng) chủ yếu do sự xung đột tiềm tàng về lợi ích giữa CSTT và chức năng điều tiết, giám sát ngân hàng. Hơn nữa, lý thuyết NHTW hiện đại chỉ ra rằng: vai trò trọng yếu của các NHTW ngày là đảm bảo sự ổn định giá trị đồng tiền, qua đó hỗ trợ tăng trưởng kinh tế bền vững. Do vậy, theo khuynh hướng chung trên thế giới, nay PBC chủ yếu tập trung mọi nguồn lực của mình vào việc hoạch định và thực thi CSTT. Việc thực hiện chức năng “bảo vệ sự ổn định của nền tài chính quốc gia”, sẽ do Cục ổn định tài chính thuộc bộ máy hoạt động nghiệp vụ tại Trụ sở chính (được thành lập mới) đảm nhiệm.

- Hoạt động thanh toán được PBC hết sức chú trọng, và vẫn tiếp tục được quản lý rất chặt chẽ. Mới đây, Vụ Hệ thống thanh toán đã được tách ra khỏi Vụ Công nghệ và Thanh toán, và được tăng cường, củng cố để có đủ khả năng thực thi nhiệm vụ “đảm bảo sự vận hành an toàn và hiệu quả của các hệ thống thanh toán”.


CHƯƠNG II‌‌

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG, QUÁ TRÌNH CẢI CÁCH VÀ MỞ CỬA CỦA THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM


2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ NGÂN HÀNG VIỆT NAM

2.1.1. Khái quát chung về cơ cấu ngành ngân hàng Việt Nam

2.1.1.1. Cơ cấu của ngành ngân hàng Việt Nam

Ngành ngân hàng Việt Nam đã trải qua một quá trình tái cơ cấu và đổi mới sâu sắc. Từ một hệ thống ngân hàng độc quyền, ngành ngân hàng của Việt Nam đã chuyển mình và thay đổi theo hệ thống hai cấp, mà bước thay đổi đầu tiên được ghi nhận từ những năm 1990 là việc tách các chức năng kinh doanh thương mại khỏi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Một số lớn những ngân hàng thương mại cổ phần đã được thành lập và sự hiện diện của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng liên doanh đã trở nên rõ ràng hơn trong thập kỷ qua. Sự hiện diện của các HTX tín dụng/ Quỹ tín dụng, các tổ chức tài chính vi mô, các công ty tài chính và cho thuê tài chính đã làm cho thị trường tài chính trong nước đa dạng hơn. Từ đó có thể thấy rằng ngành ngân hàng Việt Nam đang chuyển dần tới một hệ thống tương tự như hệ thống ngân hàng của các nền kinh tế đang nổi và mới phát triển.


Bảng 2: Ngân hàng và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng tại Việt Nam


STT

Các tổ chức tín dụng tại Việt Nam

Số lượng

1

Ngân hàng Thương mại Quốc doanh

5

2

Ngân hàng Chính sách

1

3

Ngân hàng Thương mại Cổ phần

37

4

Ngân hàng liên doanh

5

5

Chi nhánh Ngân hàng Nước ngoài

45

6

Công ty Tài chính

6

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.

Phát triển thị trường dịch vụ ngân hàng trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO - 5

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 21/08/2023