Hệ Thống Quản Lý Nhà Nước Đối Với Hoạt Động Của Thị Trường Dịch Vụ Tài Chính


tài chính đó, và đây cũng chính là nguồn thu của các tổ chức kinh doanh các loại dịch vụ tài chính để duy trì sự tồn tại của tổ chức, đảm bảo việc cung cấp các dịch vụ tài chính và thu lợi nhuận.

Tương tự, giá cả dịch vụ ngân hàng là khoản chi phí mà các tổ chức, cá nhân phải trả cho ngân hàng khi muốn sử dụng các dịch vụ của ngân hàng. Bên cạnh chất lượng thì giá cả các dịch vụ ngân hàng chính là một trong những yếu tố cạnh tranh của các ngân hàng để thu hút khách hàng.

Biểu hiện cụ thể của giá cả các loại dịch vụ tài chính trên thị trường dịch vụ ngân hàng hiện nay chính là lãi suất huy động tiết kiệm của các tổ chức tín dụng, lãi suất cho vay, phí mở tài khoản

b) Ảnh hưởng của giá cả dịch vụ ngân hàng tới sự phát triển của thị trường tài chính và nền kinh tế

Giá cả các loại dịch vụ tài chính có tác động lớn đến sự phát triển của thị trường cũng như các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính. Giá cả các loại dịch vụ tài chính quá cao hay quá thấp đều có tác động tiêu cực đến sự phát triển của thị trường dịch vụ tài chính. Trường hợp giá các loại dịch vụ tài chính quá cao, khách hàng sẽ gặp khó khăn trong việc tiếp cận và sử dụng các loại dịch vụ tài chính; ngược lại trong trường hợp giá các loại dịch vụ tài chính quá thấp thì các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính sẽ gặp khó khăn trong kinh doanh, nhiều khả năng dẫn đến thua lỗ và phá sản. Như vậy, trong cả hai trường hợp trên đều đưa đến tác động tiêu cực là thu hẹp thị trường trường dịch vụ tài chính do đó giá cả các loại dịch vụ tài chính phải được xác định ở mức thích hợp theo sự phát triển của nền kinh tế – xã hội, sự phát triển của thị trường dịch vụ tài chính.

Trong đó các loại dịch vụ tài chính thì giá cả các loại dịch vụ ngân hàng hiện nay đang rất được chú trọng do vai trò quan trọng của ngành này trong sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là trong điều kiện hội nhập. Trong bối cảnh gia nhập vào WTO thì ngân hàng được coi là ngành “nóng” nhất vì chỉ trên cơ sở ngành ngân hàng phát triển vững mạnh và hội nhập một cách vững vàng thì nền kinh tế Việt Nam mới


có thể gia nhập WTO thành công. Đặc biệt, các loại dịch vụ như: cho vay, bảo lãnh, thanh toán quốc tế và chuyển tiền đang rất được quan tâm vì những dịch vụ này có tác động rất lớn đến việc thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển.

Khi giá cả dịch vụ ngân hàng – biểu hiện cụ thể là lãi suất ngân hàng tăng cao thì chính các ngân hàng là những tổ chức chịu tổn thất và rủi ro đầu tiên. Một nguyên nhân khách quan như đồng tiền trượt giá khiến cho chỉ số giá tiêu dùng tăng thì để đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền, ngân hàng buộc phải tăng lãi suất tiền gửi. Đây cũng là một nguyên tắc hoạt động của ngân hàng. Khi lãi suất tiền gửi tăng, lãi suất cho vay cũng buộc phải tăng theo. Tuy nhiên để vẫn thu hút được khách hàng gửi tiền cũng như khách hàng đi vay thì mức tăng lãi suất cho vay không thể tăng tương ứng và thường tăng chậm hơn mức tăng lãi suất tiền gửi. Điều này khiến các ngân hàng phải đối mặt với hai rủi ro lớn đó là: giảm lợi nhuận và mức tăng của nợ khó đòi.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.

c) Các chính sách giá cả dịch vụ ngân hàng để hướng tới sự phát triển nền kinh tế bền vững

Căn cứ vào những phân tích trên, chúng ta thấy rõ mức độ ảnh hưởng của giá cả dịch vụ ngân hàng tới sự phát triển của ngành ngân hàng nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Nhưng giá cả của các dịch vụ tài chính cũng như dịch vụ ngân hàng lại được quyết định bởi cả hai tác nhân: Thị trường và Nhà nước.

Phát triển thị trường dịch vụ ngân hàng trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO - 3

Thị trường chính là cầu nối giữa người cung cấp dịch vụ ngân hàng với người có nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng. Thị trường dịch vụ ngân hàng cũng như các loại thị trường dịch vụ khác sẽ chịu tác động của những quy luật của nền kinh tế thị trường: đó là quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh và quy luật lưu thông tiền tệ. Do vậy, có rất nhiều yếu tố tác động vào thị trường dịch vụ ngân hàng, từ cả phía cung lẫn phía cầu hoặc từ chính quan hệ cung cầu dịch vụ ngân hàng. Đây cũng chính là các yếu tố căn bản hình thành nên giá cả của các dịch vụ ngân hàng.

Tuy nhiên, Nhà nước vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết và đưa ra các chính sách giá cả dịch vụ tài chính nói chung và dịch vụ ngân hàng nói riêng để hướng tới sự phát triển nền kinh tế bền vững. Mặc dù thị trường vẫn là tác nhân chính


quyết định giá cả các dịch vụ tài chính nhưng trong trường hợp cần thiết Nhà nước vẫn phải can thiệp vào chính sách giá cả các loại dịch vụ ngân hàng nhằm:

+ Ngăn chặn tình trạng độc quyền giá cả

+ Ngăn chặn khả năng xảy ra tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các tổ chức cung cấp dịch vụ ngân hàng bảo vệ quyền lợi chính đáng của các lực lượng tham gia thị trường.

+ Định hướng chính sách giá cả phục vụ mục tiêu phát triển toàn diện nền kinh tế – xã hội

1.1.3.3.Hệ thống quản lý Nhà nước đối với hoạt động của thị trường dịch vụ tài chính

a)Khái quát hệ thống quản lý Nhà nước đối với thị trường dịch vụ tài chính – lĩnh vực ngân hàng

Hệ thống khung pháp lý do Nhà nước thiết lập nhằm quy định các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường dịch vụ tài chính nói chung và từng loại thị trường dịch vụ tài chính nói riêng. Đây là căn cứ cơ bản để các đối tượng tham gia vào thị trường dịch vụ tài chính tiến hành trao đổi, mua bán các loại dịch vụ tài chính, Chính phủ tổ chức thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với các hoạt động của thị trường, xử lý các tranh chấp xảy ra giữa các bên phát sinh trong quá trình hoạt động.

Trên cơ sở hệ thống pháp luật đã được ban hành, cần phải tổ chức một hệ thống các cơ quan quản lý Nhà nước để điều hành và quản lý thị trường dịch vụ tài chính theo hệ thống pháp luật này. Trong hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước đối với thị trường dịch vụ tài chính, Chính phủ là cơ quan quản lý Nhà nước cao nhất, thống nhất quản lý và điều hành mọi hoạt động của thị trường dịch vụ tài chính. Tuy nhiên, để đảm bảo thực hiện được nhiệm vụ của mình, Chính phủ lại phân công quyền hạn và trách nhiệm cụ thể cho từng cơ quan thuộc và trực thuộc Chính phủ chịu trách nhiệm quản lý và điều hành thị trường tài chính – tiền tệ theo từng khía cạnh nhất định trên cơ sở nhiệm vụ được giao. Cụ thể, các cơ quan được Chính phủ giao trách nhiệm quản lý và điều hành thị trường dịch vụ tài chính bao gồm: Bộ Tài Chính, Ngân hàng Nhà nước (Ngân hàng Trung ương) và các Bộ, ban ngành khác.


Các cơ quan quản lý Nhà nước nêu trên sử dụng hệ thống pháp luật và các chính sách phát triển kinh tế vĩ mô khác nhau như: Chính sách tài chính khoá, chính sách quản lý nợ, chính sách thâm hụt và thặng dư ngân sách, chính sách thuế, chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá hối đoáiđể định hướng và quản lý sự phát triển của thị trường, đảm bảo thị trường ngày càng phát triển, hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật, phục vụ tốt nhất chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu trên, cơ chế và hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước cần đảm bảo một số yêu cầu sau:

Thứ nhất: quản lý Nhà nước không mang tính quản lý hành chính can thiệp trực tiếp, quá sâu vào hoạt động kinh doanh trên thị trường, mà phải mang tính chất quản lý vĩ mô, định hướng thông qua hệ thống pháp luật và các công cụ thị trường để điều chỉnh thị trường hoạt động theo khuôn khổ pháp luật, phục vụ các mục đích quản lý vĩ mô chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Ví dụ, đối với vấn đề quản lý, can thiệp vào lãi suất trên thị trường tín dụng (một loại giá cả quan trọng của dịch vụ ngân hàng), các cơ quan quản lý Nhà nước cần nắm vững quy luật: lãi suất cao thì cầu tín dụng thấp và ngược lại lãi suất thấp thì cầu tín dụng sẽ tăng lên, Nhà nước có thể tác động một cách gián tiếp thông qua cơ chế thị trường: Nhà nước thực hiện cung hoặc cầu một lượng vốn nhất định làm cho lãi suất trên thị trường biến đổi theo định hướng chính sách kinh tế vĩ mô chung của toàn bộ nền kinh tế. Không nên thực hiện chính sách can thiệp trực tiếp: Nhà nước trực tiếp xác định tỷ lệ lãi suất trên thị trường mà nên để thị trường tự điều tiết lãi suất trong nền kinh tế trên cơ sở định hướng của các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Tuy nhiên, đối với các thị trường kém phát triển hoặc trong các trường hợp khẩn cấp, Nhà nước vẫn cần phải điều chỉnh trực tiếp chế đội lãi suất trong nền kinh tế nhằm đảm bảo sự phát triển vững mạnh của cả nền kinh tế – xã hội.

Thứ hai: hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước cần đảm bảo gọn nhẹ, giảm tối thiểu các thủ tục hành chính gây cản trở cho hoạt động của thị trường dich tài chính. Vấn đề chính ở đây là thống nhất và giảm tối thiểu các đầu mối quản lý và điều hành


thị trường, đồng thời có sự phân công trách nhiệm rõ ràng giữa các cơ quan đầu mối quản lý Nhà nước đối với hoạt động của thị trường, đảm bảo thực hiện đầy đủ chức năng quản lý của Nhà nước đối với thị trường nhưng không chồng chéo giữa các cơ quan quản lý Nhà nước.

b)Hiện trạng khung pháp lý cho ngành ngân hàng và tác động của nó tới sự phát triển chung của ngành ngân hàng Việt Nam

Trong những năm qua, khung pháp lý cho ngành ngân hàng đã từng bước được cải thiện. Mốc quan trọng đầu tiên là năm 1990, hai Pháp lệnh ngân hàng đã được ban hành tạo cơ sở pháp lý cho việc chuyển đổi sang hệ thống ngân hàng hai cấp. Vào năm 1997, hai pháp lệnh trên đã được cải tiến để trở thành Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật Các tổ chức tín dụng, có hiệu lực thi hành từ tháng 10/1998. Hai luật này đã tạo ra một sân chơi bình đẳng hơn cho các tổ chức tín dụng, góp phần duy trì ổn định và phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và yêu cầu cải cách hành chính, sự nghiệp hiện đại hóa và công nghiệp hóa đất nước, nâng cao hiệu quả hoạt động tiền tệ - ngân hàng, trong năm 2003 và 2004 Luật NHNN và Luật Các TCTD đã được bổ sung, sửa đổi. Những sửa đổi này được thực hiện nhằm giải quyết sự thiếu hụt về các dịch vụ ngân hàng, nâng cao chất lượng hoạt động, năng lực quản lý, bên cạnh đó khuyến khích sự độc lập của các tổ chức tín dụng.

Ngoài ra, việc sửa đổi bổ sung hệ thống pháp luật ngân hàng còn nhằm xây dựng hệ thống ngân hàng hiện đại phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế, loại bỏ các thủ tục hành chính, giảm thiểu sự can thiệp không cần thiết của các cơ quan quản lý Nhà nước vào hoạt động của TCTD, mở rộng và quy định lại loại hình TCTD, củng cố hệ thống pháp lý, nhằm đáp ứng các yêu cầu của việc hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, và chuẩn bị cho việc gia nhập WTO trong thời gian tới. Trong Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 4 điều khoản (9, 17, 21 và 32) đã được sửa đổi tương ứng với nhu cầu thay đổi trong chính sách quản lý tiền tệ, như là các điều khoản minh bạch hoá hoạt


động của ngân hàng, các quy định về hoạt động thị trường mở1. Trong Luật về Các Tổ chức Tín dụng, 20 điều khoản đã được sửa đổi có liên quan đến những điểm khác biệt giữa tín dụng ưu đãi và tín dụng thương mại, việc sắp xếp và các hoạt động của các tổ chức tín dụng.


Điều hành chính sách tiền tệ

Từ những năm 1990 đến nay, NHNN Việt Nam đã thành công trong việc điều hành chính sách tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đảm bảo sự ổn định và phát triển hệ thống các TCTD2. Đồng thời, hệ thống các công cụ của chính sách tiền tệ đã liên tục phát triển và hoàn thiện theo hướng ngày càng giảm dần sự can thiệp trực tiếp của NHNN vào các hoạt động

kinh doanh của TCTD. Quá trình vận hành và tổng kết hai Pháp lệnh ngân hàng 1989 và tiếp đó là sự ra đời hai Luật ngân hàng 1997 đã đánh dấu những bước tiến lớn về hiện đại hoá công nghệ quản lý và tự do hoá hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước: Lãi suất đã được tự do hoá, tỷ giá hối đoái đã được điều hành linh hoạt, các công cụ như chiết khấu, tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở đã hình thành và từng bước phát huy tác dụng. Thị trường tiền tệ (cả nội tệ và ngoại tệ) đã ngày càng sôi động. Nhờ đó, các căn bệnh kinh niên, phổ biến trong cơ chế bao cấp như: Nạn khan hiếm tiền mặt, lạm phát phi mã và những đột biến của tỷ giá hối đoái... đã cơ bản được chấm dứt từ 1993.

Ngoài ra, NHNN đã có nhiều nỗ lực trong việc hình thành và không ngừng đổi mới điều hành các công cụ chính sách tiền tệ theo các tiêu chuẩn quốc tế. Trong giai


1 Ví dụ, Quyết định 42-2003-QD-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra ngày 13 tháng 01 năm 2003 phác thảo kế hoạch đổi mới ngành ngân hàng Việt Nam. Quyết định số 109-QD-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra ngày 30 tháng 01 năm 2004 liệt kê các ấn phẩm pháp lý của Ngân hàng Nhà nước năm 2004.

2 Đến hết năm 1999 đã căn bản khắc phục xong hiệu ứng trễ của cuộc khủng hoảng tiền tệ khu vực, góp phần kéo lạm phát từ mức 9,2% năm 1998 xuống còn 0,1% năm 1999. Tiếp đó là quá trình chủ động kiềm chế và kiểm soát lạm phát :Năm 1999: 0,1%; 2000: - 0,6%; 2001:-0,2%; 2002:4%; 2003:3%; 2004: 9,5%; 2005: 8,23%. (Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam).


đoạn đầu, để phù hợp với điều kiện thị trường tiền tệ chưa thực sự phát triển, NHNN đã lựa chọn sử dụng nhiều hơn các công cụ trực tiếp như hạn mức tín dụng trong điều hành chính sách tiền tệ. Đặc biệt, trong năm 2005 trước sức ép của chỉ số giá tiêu dùng có xu hướng tăng liên tục ở mức khá cao và mục tiêu tăng trưởng kinh tế, NHNN đã chủ động đưa ra các giải pháp điều hành CSTT chuyển mạnh sang giải pháp thị trường, đồng thời bám sát quy luật thị trường và xu thế hội nhập quốc tế. Điều này được thể hiện ở sự đổi mới trong việc sử dụng các công cụ tiền tệ gián tiếp như:

Nghiệp vụ thị trường mở : Năm 2005 đánh dấu bước phát triển đáng kể sau 5 năm được NHNN chính thức thực hiện. Tính chung cả năm 2005, số lượng phiên giao dịch vụ tăng 28,5% so với năm 2004, số phiên giao dịch tăng lên 3 phiên/tuần. Quy mô hoạt động nghiệp vụ thị trường mở tiếp tục được mở rộng: tổng doanh số giao dịch năm 2005 đạt 102.511 tỷ đồng, tăng 65,5% so với năm 2004. Số lượng thành viên tham gia nghiệp vụ thị trường mở trong năm 2005 cũng được tăng cường.được thực hiện từ năm 2000 và đến nay vẫn còn là một công cụ thường được NHNN sử dụng.

Công cụ tái cấp vốn: đến nay tái cấp vốn của NHNN Việt Nam cho các NHTM chủ yếu được thực hiện dưới các hình thức chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay có đảm bảo bằng giấy tờ có giá. Các thủ tục cho việc tái cấp vốn đã được đơn giản hoá và đang được áp dụng khá bình đẳng cho tất cả các ngân hàng, không phân biệt loại hình sở hữu. Công cụ tái cấp vốn được NHNN sử dụng thường xuyên nhằm tác động vào các điều kiện của thị trường tiền tệ của NHNN. Để mở rộng khả năng điều tiết tiền tệ của HNTW, năm 2005 NHNN đã ban hành Quyết định 1909/QĐ-NHNN ngày 30/12/2005 về việc các TCTD sử dụng một số loại trái phiếu trong các giao dịch tái cấp vốn của NHNN. Đồng thời, trong năm 2005 các TCTD đã quan tâm hơn đến việc sử dụng triệt để hơn hạn mức chiết khấu đã tăng từ 60% đến 80% tổng hạn mức chiết khấu được phân bổ. Còn đối với giao dịch vụ tái cấp vốn trong năm 2005 doanh số giao dịch tăng 50% so với năm 2004.

Công cụ dự trữ bắt buộc: NHNN đã từng bước đổi mới theo hướng nâng cao khả năng điều tiết của các công cụ dự trữ, phù hợp thông lệ quốc tế và tạo điều kiện


cho TCTD sử dụng vốn linh hoạt. Trên thực tế, NHNN đã quy định dự trữ bắt buộc duy trì trên các khoản tiền gửi kỳ hạn từ năm 1995, được áp dụng cho cả các khoản tiền gửi có kỳ hạn và không có kỳ hạn tăng từ dưới 12 tháng tới dưới 24 tháng. Từ tháng 8 năm 2003, các tổ chức tín dụng được phép tính cả tiền gửi tại các chi nhánh NHNN là tiền duy trì dự trữ bắt buộc. NHNN cũng áp dụng các điều kiện dự trữ bắt buộc cho cả tiền đồng và tiền đô la Mỹ. Trong năm 2005, NHNN tiếp tục điều hành công cụ dự trữ bắt buộc theo hướng tính bình quân tháng và thực hiện trả lãi cho tiền gửi trong mức dự trữ bắt buộc bằng VND và không phải trả tiền lãi cho tiền gửi vượt mức dự trữ bắt buộc để các ngân hàng có thể sử dụng linh hoạt nguồn vốn và hạn chế nguồn vốn dư thừa. Nhờ vậy, mức dự trữ vượt quá của các TCTD tại NHNN đã giảm mạnh, trung bình tỷ lệ dự trữ vượt trên tổng số tiền phải dự trữ bắt buộc đã giảm từ mức 47% năm 2004 xuống còn 24% năm 2005.

Ngoài các công cụ chính sách tiền tệ nêu trên, từ tháng 7/2001, NHNN bắt đầu thực hiện nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ như một công cụ chính sách tiền tệ. Thông qua nghiệp vụ này, NHNN đã bơm nhiều tiền đồng hơn nữa vào các tổ chức tín dụng, đặc biệt là các tổ chức trước đây đã gặp khó khăn về vốn khả dụng bằng tiền đồng.

Cơ chế điều hành lãi suất: từ năm 2002, NHNN bắt đầu thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động cho vay thương mại bằng tiền đồng của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Các mức lãi suất này được dựa trên các mức lãi suất cơ bản được quyết định và ban hành bởi NHNN Việt Nam. Đây là bước đột phá quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ theo các nguyên tắc thị trường, khuyến khích các tổ chức tín dụng mở rộng mạng lưới hoạt động để thực hiện việc huy động và cho vay với mức lãi suất phù hợp với cung cầu vốn trên thị trường. Đồng thời, điều hành chính sách lãi suất một cách linh hoạt trên cơ sở phân tích diễn biến lãi suất tiền tệ, lạm phát trong nước và lãi suất trên thị trường quốc tế. Điều này nâng cao tính tự chủ trong kinh doanh và khả năng cạnh tranh của các tổ chức tín dụng. Vì vậy, lãi suất thị trường năm 2005 đã tăng do điều kiện thị trường nhưng không gây đột biến và đảm bảo hài hòa

Xem tất cả 119 trang.

Ngày đăng: 21/08/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí