Thực Trạng Đào Tạo, Bồi Dưỡng Nguồn Nhân Lực Ngành Du Lịch :


Kết quả

phân tích

cũng cho thấy nhu cầu đào tạo bồi dưỡng về

ngoại ngữ

chiếm phần lớn (54,13%), sau đó đến kỹ

năng giao tiếp

(38,29%). Đối với các lớp ngắn hạn thì nhu cầu phần lớn cũng như đối với cán bộ quản lý, thuộc về các khóa quản lý khách sạn (41,37%) và nhà hàng (17,96%) . Số người quan tâm đến nghiệp vụ nhà hàng - khách sạn cũng rất đáng kể (22,45%).

Trong khi đó, nội dung về quản lý nhà nước (4,72%) và hiểu biết về các quy định của Nhà nước đối với hoạt động du lịch rất ít được quan tâm (8,03%).

Nhu cầu đào tạo bồi dưỡng về

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 162 trang tài liệu này.

ngoại ngữ

và kỹ

Phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch khu vực duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên - 12

năng giao tiếp

chiếm đa phần (đều là 37,14%), đó cũng do đặc thù của

các tỉnh

Tây

Nguyên so với

các tỉnh

DHNTB. Nhu cầu hiểu biết về

quản lý quản trị

nhân sự, quản trị

tài chính-kế

toán doanh nghiệp cũng được khá nhiều

người quan tâm (khoảng trên dưới 15%). Kiến thức quản lý nhà nước cũng ít được quan tâm giống các tỉnh khu vực DHNTB, khi chỉ có 3,8% số người thể hiện mong muốn.

Đối với các lớp ngắn hạn thì cũng giống như các tỉnh khu vực

DHNTB đa phần nhu cầu hướng tới các khóa về quản lý khách sạn

(16,19%) và nhà hàng (15,23%). Tuy nhiên, số người quan tâm đến nghiệp vụ nhà hàng - khách sạn thì vượt trội (32,38%)..

2.2.2. Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực ngành Du lịch :

Theo thống kê chưa đầy đủ thì cả nước hiện có 284 cơ sở tham gia đào tạo du lịch, gồm 62 trường đại học; 80 cao đẳng (trong đó có 8 trường cao đẳng nghề); 117 trung cấp (trong đó có 12 trung cấp nghề); 02 công ty

đào tạo và 23 trung tâm, lớp đào tạo nghề.

Hiện nay mỗi năm cả

nước

tuyển sinh khoảng 22.000 học sinh, sinh viên du lịch (tăng 22,2% so với năm 2007), trong đó tuyển sinh đào tạo đại học là 3.870 sinh viên (1.770 sinh viên đại học, cao đẳng chuyên nghiệp và 2.100 sinh viên cao đẳng nghề du lịch); trung cấp là 18.190 học sinh (tăng gần 30% so với năm 2007;


gồm 14.495 học sinh trung học chuyên nghiệp và 3.695 học sinh trung cấp nghề du lịch); sơ cấp nghề và đào tạo du lịch dưới 3 tháng chưa có số liệu thống kê đầy đủ, ước khoảng 5.000 học viên. Số lượng học sinh, sinh viên tốt nghiệp hàng năm khoảng 20.000. Đào tạo nghề sơ cấp, ngắn hạn có xu hướng tăng hơn so với 2 năm trước. Tuyển sinh thạc sỹ và tiến sĩ với các đề tài về du lịch, nhưng quy mô còn hạn chế.

Trên địa bàn các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên có các trường đại học là Trường Đại học Nha Trang, Trường Đại học Thái Bình Dương, Trường Đại học Phan Thiết, Trường Đại học Quy Nhơn, Trường Đại học Đà Lạt, Trường Đại học Yersin Đà Lạt và các trường cao đẳng là Trường Cao đẳng Văn hoá Nghệ thuật và Du lịch Nha Trang, Trường Cao đẳng Sư

phạm Trung

ương Nha Trang, Trường Cao đẳng Sư

phạm Nha Trang,

Trường Cao đẳng Bình Định, Trường Cao đẳng Sư phạm Kontum tham gia đào tạo trình độ đại học, cao đẳng du lịch với tổng lượng sinh viên hàng năm gần 3.250 sinh viên

Ở cấp đào tạo trình độ trung cấp du lịch có 09 trường Trung cấp, 03 trường cao đẳng và 02 trường đại học tham gia đào tạo với tổng lượng sinh viên hàng năm là 3.560. Trường Trung cấp Du lịch Đà Lạt và Trường Trung cấp Du lịch Nha Trang được ngành Du lịch đầu tư đi vào hoạt động năm 2007. Tổng quy mô của các cơ sở đào tạo du lịch các cấp đào tạo với 6.800 sinh viên là con số quá ít nếu xét theo nhu cầu về nguồn nhân lực ngành Du lịch của khu vực.

Trên địa bàn của khu vực còn một số cơ sở đào tạo, trong đó có đào tạo nghề có liên quan đến du lịch, nhưng ngoại trừ Trường Trung cấp Du lịch Nha Trang là trường nghiệp vụ chuyên nghiệp nhất của khu vực (được Tổng cục Du lịch thành lập, đầu tư năm 2007, dự kiến hoàn tất khâu xây dựng trong năm 2010, năm học 2008 – 2009 tuyển sinh khoá đầu tiên được gần 300 sinh viên), nên cơ sở vật chất kỹ thuật đồng bộ, đáp ứng các tiêu


chuẩn đào tạo nghề của châu Âu, có với cơ sở thực hành là khách sạn 3 sao; những cơ sở đào tạo còn lại thường đào tạo không chuyên sâu về du lịch: Trường Cao đẳng Sư phạm Nha Trang (đào tạo ngoại ngữ du lịch, địa lý du lịch và văn hoá du lịch), Trường Cao đẳng nghề Nha Trang (đào tạo ngành Du lịch với trình độ trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật bậc 2/7 và 3/7); Trường Cao đẳng nghề Việt Mỹ - chi nhánh Nha Trang chủ yếu là đào tạo về ngoại ngữ, do vậy năng lực và chất lượng đào tạo chuyên ngành du lịch vẫn còn nhiều hạn chế.

Hiện nay, ngành Du lịch cả nước nói chung và các tỉnh DHNTB và

Tây Nguyên nói riêng vẫn chưa có chương trình khung thống nhất ở các

cấp đào tạo; dẫn đến tình trạng mỗi cơ sở đào tạo đều có những giáo trình riêng, thậm chí giáo trình của một số cơ sở đào tạo còn chưa tiêu chuẩn. Trong ngành Du lịch mới chỉ có 5 môn cơ sở ngành hệ trung học chuyên nghiệp là (1) Tổng quan du lịch ; (2) Tổng quan cơ sở lưu trú du lịch ; (3) Marketing du lịch ; (4) Tâm lý khách du lịch và (5) Kỹ năng giao tiếp là có giáo trình chuẩn. Thực trạng giáo trình của các trường đại học, cao đẳng

đào tạo du lịch ở khu vực DHNTB và Tây Nguyên cũng nằm trong tình

trạng chung này; tính liên thông giữa các cấp học bậc học của chương trình

và giáo trình đào tạo du lịch đang là vấn đề cần giải quyết. Cụ thể, về

chương trình, giáo trình đào tạo nghề du lịch cho đến nay vẫn chưa được giảng dạy đồng bộ tại các trường.

Do cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo cũng như cơ

quan quản lý nhà nước về du lịch chưa xây dựng những tiêu chí cụ thể về chuyên môn làm căn cứ cho các cơ sở đào tạo xây dựng chương trình, giáo trình dẫn đến nội dung đào tạo của các cơ sở không thống nhất, không có quy chuẩn tối thiểu về nội dung chương trình đào tạo chuyên ngành du lịch cho từng bậc học, từng ngành học; học sinh, sinh viên tốt nghiệp ra trường

khó xác định trình độ tay nghề hoặc trình độ quản lý. Việc bổ sung cập


nhật kiến thức và phương pháp giảng dạy cũng phụ từng cơ sở đào tạo.

thuộc chủ yếu vào

Đội ngũ giáo viên, giảng viên

tại các cơ

sở đào tạo đã tăng nhưng

không nhiều. Số giáo viên được đào tạo bài bản về du lịch vẫn còn chiếm tỷ lệ thấp ; nhìn chung kiến thức chuyên sâu về du lịch của giáo viên, giảng viên được tích luỹ chủ yếu thông qua các lớp bồi dưỡng và tự học, chưa được trang bị một cách tổng thể, bài bản ; phương pháp giảng dạy phần nhiều vẫn mang tính thuyết trình.

Ở đào tạo du lịch bậc đại học, cao đẳng, trình độ giáo viên đại học được nâng cao và lực lượng giáo viên trẻ cũng đã tiếp cận với kiến thức mới, được bồi dưỡng và đào tạo thêm tại một số nước có ngành du lịch

phát triển. Nhưng lực lượng này còn quá ít, số lượng đào tạo tại nước

ngoài chưa nhiều và vẫn thiếu về kinh nghiệm giảng dạy lẫn kinh nghiệm thực tiễn. Chính vì vậy, các giáo viên mới đều trong tình trạng truyền đạt

lý thuyết đơn thuần, kinh nghiệm nghề thiếu.

nghiệp và quản lý thực tế

còn

Ở đào tạo du lịch bậc trung cấp và đào tạo nghề, phần lớn giáo viên, giảng viên giảng dạy đều có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm giảng dạy và kiến thức thực tế. Nhiều cơ sở đã có bề dày kinh nghiệm trong đào tạo nghiệp vụ. Tuy nhiên, năng lực ngoại ngữ, năng lực tin học… vẫn còn những hạn chế nhất định, nhất là ở những giáo viên có tuổi.

Cơ sở vật chất của các cơ sở đào tạo du lịch đã được đầu tư và trang

bị phục vụ cho công tác thực hành cũng như phục vụ học tập nhưng hệ

thống cơ sở vật chất, trang thiết bị vẫn còn thiếu đồng bộ và lạc hậu. Hệ thống giáo trình đã được cải thiện nhiều, đưa vào hệ thống giáo trình trực tuyến nhưng vẫn còn ở mức độ sơ khai. Các trang thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập còn thiếu.


Cơ sở vật chất kỹ thuật đào tạo du lịch ở hầu hết các trường đào tạo

nghề

du lịch khác trong

khu vực còn rất thiếu thốn, chắp vá; mới chỉ có

phòng học lý thuyết, hầu như không có cơ sở thực hành, thường đi thuê

hoặc sử

dụng một số

buổi tại các cơ sở kinh doanh trong thời gian kinh

doanh thấp điểm. Bởi vậy, nhiều trường mang tên đào tạo các chuyên ngành du lịch nhưng khi tham gia vào hệ thống đào tạo nghề du lịch chưa có hoạt động, chưa tích cực và không hòa đồng với các cơ sở đào tạo du lịch chuyên nghiệp, chưa đạt được mức chất lượng đào tạo trung bình.

Nhìn chung hệ thống cơ sở đào tạo nghề du lịch ở khu vực còn nhiều

hạn chế, bước đầu hình thành mạng lưới đào tạo nghề

trên cơ

sở các

trường đào tạo chuyên nghiệp du lịch. Để hình thành và phát triển mạng lưới đào tạo nghề du lịch thực thụ, cần phải mở rộng thành lập các cơ sở đào tạo mới ở các vùng du lịch trọng điểm và tăng cường hợp táp giữa các trường, thống nhất chương trình, giáo trình đào tạo và chuẩn hóa đội ngũ giáo viên.

Mặc dù nguồn nhân lực ngành Du lịch của khu vực chưa đáp ứng cả về chất lượng và số lượng, nhưng chỉ trên 60% số lượng học viên sau khi được đào tạo, bồi dưỡng về du lịch ở các bậc tại các cơ sở đào tạo du lịch trong khu vực, tìm kiếm được việc làm tại các cơ sở kinh doanh du lịch và cơ quan có hoạt động liên quan đến du lịch. Theo phản ánh, các cơ sở kinh doanh du lịch sau khi nhận về, vẫn phải tổ chức đào tạo lại cho các học viên trước khi giao cho họ những công việc cụ thể tại doanh nghiệp của mình, do còn có khoảng cách giữa những gì học viên được trang bị từ các

cơ sở đào tạo du lịch với nhu cầu thực tiễn của công việc mà học viên

được giao.

Một thực tế khác khiến cho công tác đào tạo, bồi dưỡng du lịch chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn là hầu hết các doanh nghiệp du lịch đứng ngoài cuộc, không tham gia vào hoạt động đào tạo, bồi dưỡng du lịch. Có


nhiều lý do, nhưng vấn đề chính là ngay bản thân các doanh nghiệp cũng chưa ý thức hết được vai trò của nguồn nhân lực ngành Du lịch đối với sự phát triển của doanh nghiệp, nên chưa có chiến lược phát triển nhân sự, và vì vậy họ ít quan tâm đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực cũng như hợp tác với các cơ sở đào tạo du lịch.

Ở các doanh nghiệp du lịch có yếu tố nước ngoài hoặc doanh nghiệp

liên doanh với các hãng du lịch danh tiếng (ví dụ Saigontourist), công tác

đào tạo nguồn nhân lực ngành Du lịch được chú trọng hơn thông qua hệ thống đào tạo riêng, có chiến lược thu hút, bồi dưỡng, sử dụng riêng nên chất lượng nguồn nhân lực ngành Du lịch thường có chất lượng cao hơn so với mặt bằng chung của khu vực.

2.2.3. Công tác quản lý nhà nước đối với phát triển nguồn nhân lực

ngành Du lịch các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên:

2.2.3.1. Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch:

Hệ thống tổ

chức quản lý nhà nước về

phát triển nguồn

nhân lực

ngành Du lịch ở nước ta đã từng bước được hình thành. Trước năm 2007, với tư cách là cơ quản lý nhà nước về du lịch ở Trung ương, Tổng cục Du lịch đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Nội vụ, Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (Tổng cục Dạy nghề) thực hiện chức năng quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch trong cả nước. Tại khu vực nghiên cứu, có 01 Sở Du lịch (tỉnh Bình Thuận), 02 Sở Du lịch - Thương mại (tỉnh Khánh Hoà và Lâm Đồng) và 07 Sở Thương mại - Du lịch ở các tỉnh còn lại. Đây là những cơ quan chuyên môn có chức

năng tham mưu cho Ủy ban Nhân dân các tỉnh, thành phố thực hiện chức

năng quản lý nhà nước về du lịch và phát triển nhân lực ngành địa bàn khu vực.

Du lịch trên


Từ năm 2007, Tổng cục Du lịch, cùng với Uỷ ban Thể dục và Thể thao sáp nhập vào Bộ Văn hóa – Thông tin thành Bộ Văn hóa, Thể thao và

Du lịch theo quy định của Nghị định 185/2007/NĐ-CP, ngày 25 tháng 12

năm 2007. Theo đó, Bộ Văn Hóa, Thể thao và Du lịch là cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về du lịch ở Trung ương. Theo tinh thần của

Nghị định này, tại tất cả các tỉnh, thành phố trong nước, các Sở Văn hóa-

Thông tin, Sở Thể dục và Thể thao, Sở Du lịch (hoặc phòng Quản lý Du lịch của các Sở Du lịch-Thương mại, Thương mại-Du lịch) cũng sáp nhập thành Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Ở các tỉnh khu vực DHNTB và Tây Nguyên có 10 Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch là cơ quan chuyên môn có chức năng tham mưu cho Uỷ ban Nhân dân các tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về du lịch và quản lý nhà nước đối với phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch ở khu vực.

2.2.3.2. Thực trạng quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch:

- Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch: Do ở

cấp Trung

ương (Bộ

VH,TT&DL) chưa xây dựng chiến lược phát triển

nguồn nhân lực ngành Du lịch (hiện nay Bộ VH,TT&DL đang triển khai

xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực VH,TT&DL) nên các tỉnh

trong khu vực cũng chưa có căn cứ để nguồn nhân lực ngành Du lịch.

xây dựng chiến lược phát triển

- Xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch: Ở Trung ương, trước đây Tổng cục Du lịch, nay là Bộ VH,TT&DL, phối hợp với các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật như Thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định 92/2007/NĐ-CP quy định chi tiết một số

điều của Luật Du lịch (Thông tư

hướng dẫn về kinh doanh lữ

hành, chi

nhánh văn phòng đại diện của doanh nghiệp nước ngoài, hướng dẫn du lịch


và xúc tiến du lịch; và Thông tư hướng dẫn về hoạt đông kinh doanh lưu trú du lịch). Phối hợp với Ban Kỹ thuật, Tổng cục Đo lường chất lượng tiếp tục hoàn thiện tiêu chuẩn xếp hạng các loại hình cơ sở lưu trú du lịch. Hoàn chỉnh dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế về thí điểm tổ chức và quản lý phương tiện giao thông cơ giới đường bộ của người nước ngoài đưa vào và sử dụng trên lãnh thổ Việt Nam trong thời gian tham quan, du lịch. Đề xuất Bộ Giao thông - Vận tải cùng phối hợp xây dựng Thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện điều 20 Nghị định 92/2007/NĐ-CP ngày 1/6/2007 của Chính phủ quy định về cấp biển hiệu

đạt tiêu chuẩn phục vụ

khách du lịch và Điều 10 Nghị

định số

110/2006/NĐ-CP ngày 28/9/2006 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh vận tải khách du lịch nhằm tạo hành lang pháp lý và điều kiện thuận lợi cho các đơn vị kinh doanh vận chuyển khách du lịch. Phối hợp với Bộ Công An xây dựng và hoàn thiện dự thảo Thông tư liên tịch giữa Bộ Công An và Bộ VH,TT&DL về bảo vệ an toàn quốc gia và trật tự an toàn xã hội trong hoạt động du lịch. Những văn bản hướng dẫn này có ý nghĩa quan

trọng, góp phần hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy, tạo môi trường

pháp lý ổn định cho các hoạt động du lịch, nâng cao năng lực quản lý nhà nước về du lịch trong bối cảnh du lịch Việt Nam ngày càng hội nhập sâu, rộng, toàn diện với khu vực và thế giới. Việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển, từ chức, miễn nhiệm cán bộ, công chức, viên chức lãnh đạo được tiến hành đúng tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục theo quy định tại Quyết định

27/QĐ-TTg của Thủ

tướng Chính phủ

và các quy định tại các văn bản

hướng dẫn của các bộ, ngành liên quan.

Ở khu vực

địa phương, cơ

quan quản lý nhà nước về

du lịch là

UBND các tỉnh. Hệ thống các văn bản quản lý phát triển nguồn nhân lực

ngành Du lịch dựa chủ yếu vào văn bản quy phạm pháp luật do các bộ

ngành ở Trung ương ban hành.

Xem tất cả 162 trang.

Ngày đăng: 17/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí