Các Nhân Tố Tác Động Đến Sự Phát Triển Ngành Logistics


Hoạt động kho bãi là hoạt động bổ trợ nhưng có vai trò quan trọng trong việc thực hiện được mục tiêu chung của chuỗi cung ứng. Năng lực kho bãi thường được đánh giá qua khả năng lưu trữ và chi phí lưu trữ. Logistics trong quản lý kho bãi bao gồm các hoạt động như: (i) xác định quy mô, diện tích, (ii) bố trí mặt bằng, sắp xếp trong kho, (iii) thiết lập cơ cấu kho bãi, (iv) lựa chọn địa điểm. Địa điểm kho bãi có ý nghĩa rất quan trọng. Lựa chọn địa điểm phù hợp có tác động lớn đến việc sắp xếp kế hoạch vận chuyển, mở rộng thị trường và nâng cao khả năng cung ứng. Địa điểm kho bãi thuận lợi cũng là yếu tố then chốt trong việc nâng cao năng lực đáp ứng hàng hóa tại nhiều địa điểm khác nhau, trong các khoảng cách khác nhau mà vẫn tiết kiệm chi phí vận chuyển.

c./ Hoạt động đóng gói

Đóng gói hàng hóa (packaging) là hoạt động đảm bảo cho sự an toàn của hàng hóa nhưng vẫn đảm bảo hiệu quả kinh tế cao nhất khi hiểu rò đặc tính của loại hàng hóa đó cũng như điều kiện tự nhiên mà nó phải chịu trong quá trình vận chuyển.

Hoạt động đóng gói có nhiệm vụ chính là bảo vệ hàng hóa trong quá trình bốc xếp, vận chuyển từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Tùy theo loại hàng hóa mà chi phí dành cho đóng gói có thể chiếm từ 5-30% trị giá hàng hóa. Khi khoảng cách giữa điểm xuất phát và đích đến của hàng hóa càng lớn, quãng đường hàng hóa được vận chuyển càng dài thì càng đặt ra những yêu cầu khắt khe hơn cho việc đóng gói hàng hóa. Xu thế đồng bộ hóa trong các hoạt động vận chuyển, kho bãi cũng là một xu thế chung trong phát triển kinh tế toàn cầu. Vì vậy, đóng gói hàng hóa cũng phải hướng tới tính đồng nhất để thuận tiện cho phân phối nhưng vẫn phải đảm bảo những tính chất chuyên biệt phù hợp với từng loại hình kinh doanh, từng loại hình vận tải và điều kiện của thị trường tiêu thụ. Những vấn đề liên quan đến đóng gói hàng hóa như trên đang dần nâng cao vai trò của hoạt động đóng gói trong các hoạt động bổ trợ vận hành chuỗi cung ứng. Hoạt động logistics đóng gói hàng hóa thường bao gồm một số nội dung chính: (i) thiết kế đóng gói phù hợp (phù hợp với bốc xếp, lưu trữ, bảo vệ hàng hóa để thực hiện vai trò cơ bản là bảo vệ, tránh thất thoát, hư hỏng; phù hợp với phương thức vận chuyển, phương tiện vận chuyển, phương tiện bốc xếp; phù hợp với đặc điểm thị trường tiêu thụ; đảm bảo theo yêu cầu của marketing), (ii) xây dựng kế hoạch, quy trình đóng gói.


d./ Hoạt động trao đổi và quản lý thông tin

Công nghệ thông tin đã từ lâu trở thành công cụ quản lý mạnh mẽ trong nền kinh tế hiện đại. Công tác quản lý thông tin mặc dù chỉ có tính chất hỗ trợ cho các hoạt động khác trong chuỗi cung ứng nhưng nó lại có tính chất quyết định đến từng hoạt động và cả hệ thống. Đặc biệt khi thương mại điện tử phát triển mạnh, việc quản lý lý thông tin từ khâu tiếp nhận, lưu trữ, xử lý trở thành một hoạt động sống còn trong chuỗi cung ứng. Nội dung công việc tuy không phức tạp và đòi hỏi nhiều chi phí, nguồn lực nhưng lại là một hoạt động thường xuyên. Trong các hoạt động của chuỗi cung ứng, nhiều hoạt động có khoảng thời gian tạm ngừng nhưng riêng hoạt động thu thập, lưu trữ và xử lý thông tin không bao giờ ngừng để đảm bảo thông tin luôn được cập nhật. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, các thông tin về bến cảng, tàu thuyền, chuyến bay, dịch vụ thông quan, xuất hàng, nhận hàng, phân luồng kiểm hóa, tra cứu biểu thuế suất đều thực hiện trên hệ thống hải quan điện tử.

Lưu trữ thông tin một cách khoa học giúp việc tra cứu, truy xuất dữ liệu dễ dàng, thuận tiện khi cần thiết. Có những thông tin là tài sản giá trị rất lớn đối với DN như công nghệ, danh sách khách hàng, dữ liệu về đối tác, dữ liệu về sản xuất, dữ liệu về thị trường…. Do đó, việc lưu trữ bảo mật thông tin là một trong những biện pháp bảo vệ an toàn cho hệ thống, bảo vệ và nâng cao năng lực cạnh tranh. Xử lý thông tin cho kết quả là cơ sở để ra các quyết định, hoạch định các chiến lược nên xử lý thông tin cần chính xác, kịp thời. Một sai sót nhỏ trong xử lý thông tin có thể phá hủy toàn bộ hệ thống chuỗi cung ứng. Hệ thống quản lý thông tin nhanh, chính xác giúp việc đưa ra các quyết định, kế hoạch thích hợp cho các hoạt động của chuỗi cung ứng. Hoạt động quản lý hệ thống thông tin thường bao gồm các nội dung: (i) thu thập, lưu trữ và xử lý thông tin, (ii) phân tích số liệu, (iii) xây dựng các quy trình kiểm soát (ví dụ như việc kiểm soát quá trình vận chuyển hàng hóa thông qua hệ thống định vị toàn cầu GPS- Global Positioning System).

1.1.4.2 Các nhân tố tác động đến sự phát triển ngành logistics

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.


a./ Cơ sở hạ tầng

Phát triển ngành logistics Việt Nam trong quá trình hội nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN đến năm 2025 - 4

Cơ sở hạ tầng logistics là một vấn đề quan trọng và có khả năng ảnh hưởng lớn đến sự phát triển chung của lĩnh vực logistics. Do bản chất của logistics là sự tính toán tối ưu


phương án vận chuyển và lưu thông hàng hóa từ nơi bắt đầu đến nơi cuối cùng. Mà sự di chuyển của hàng hóa từ điểm đầu đến điểm cuối trong thực tế có hiệu quả hay không chịu ảnh hưởng rất lớn từ tính chất, nội dung và cấu trúc của hệ thống cơ sở hạ tầng bao gồm sự bố trí của các cảng, nhà ga, sân bay, bến tàu và các hệ thống giao thông kết nối giữa các công trình ấy.

b./ Nguồn nhân lực logistics

Nhân lực là nhân tố động nhất, luôn thay đổi và gắn với năng suất, chất lượng và hiệu quả của hoạt động logistics. Trình độ của nguồn nhân lực logistics phản ánh trình độ phát triển của ngành logistics của một quốc gia. Các quốc gia có nguồn nhân lực ở trình độ cao thì việc phát triển ngành logistics sẽ đi vào chiều sâu, có hàm lượng khoa học – công nghệ cao, giá trị gia tăng cao. Trong thời đại ngày nay, hầu hết các quốc gia đều hướng tới phát triền nền kinh tế tri thức. Vì thế, ngành logistics cũng gắn liền với nền kinh tế tri thức. Tuy nhiên, các quốc gia phát triển sẽ tiến nhanh và gần hơn với nền kinh tế tri thức, ngành logistics sẽ phát triển ở tầm cao hơn. Trái lại, các quốc gia đang phát triển hướng đến nền kinh tế tri thức nhưng nguồn nhân lực hạn hẹp, không đủ trình độ chuyên môn tạo ra khoảng cách xa đối với các nền kinh tế phát triển.

c./ Hệ thống pháp luật, chính sách

Việc xây dựng và hoàn thiện liên tục hệ thống pháp luật, chính sách phù hợp với thông lệ quốc tế, mang tính thời đại và thực tiễn có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển ngành logistics ở bất kì quốc gia nào. Phát triển ngành logistics hay bất kì ngành dịch vụ nào khác nói chung đều không thể thiếu vắng hệ thống pháp luật, chính sách. Hệ thống pháp luật, chính sách của quốc gia đồng bộ, toàn diện và có chất lượng cao là điều kiện cần để phát triển ngành logistics. Hệ thống pháp luật, chính sách đó phải phù hợp thông lệ quốc tế, kết nối và tác động thuận chiều với các đối tác song phương và đa phương, đồng thời tổ chức triển khai và thực hiện tốt mới là điều kiện đủ, tạo khung cơ sở pháp lý vững chắc.

d./ Hệ thống thông tin

Trong hoạt động logistics thì vấn đề thông tin là một vấn đề quan trọng. Các thông tin về loại hình vận chuyển, thông tin về hàng hóa, thông tin về chi phí, thông tin về địa


điểm bố trí các nút giao thông và lưu chuyển hàng hóa có vị trí rất quan trọng trong quá trình triển khai hoạt động logistics. Có được thông tin sẽ giúp cho các DN logistics tính toán để đưa ra các giải pháp phù hợp và tối ưu, qua đó làm tăng hiệu quả của hoạt động logistics. Mặt khác, trong các hoạt động của bản thân DN logistics thì rất cần sự đáp ứng của các hoạt động khác như hải quan, ngân hàng, bảo hiểm. Trong xu hướng thế giới hiện nay thì các hoạt động này đã và đang được điện tử hóa qua việc ứng dụng CNTT. Chính việc tận dụng CNTT trong quản lý hoạt động và giao dịch giúp cho các DN cung ứng dịch vụ logistics một cách hiệu quả và hiện đại.

e./ Điều kiện tự nhiên

Khi xem xét nhân tố điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến việc phát triển ngành logisics của các quốc gia tức là phân tích, đánh giá khả năng vốn có, mang tính chất tự nhiên hay một nguồn lực tự nhiên có thể khai thác, huy động vào phát triển logistics. Chẳng hạn, một quốc gia có cảng nước sâu có thể phát triển dịch vụ cảng biển, một quốc gia có nằm trên tuyến đường hàng hải quốc tế thì ngành logistics có điều kiện phát triển hơn…Bên cạnh đó cũng phải kể đến sự khan hiếm hay dồi dào của các nguyên vật liệu ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh do điều kiện khí hậu, thời tiết.

f./ Sự cạnh tranh trong ngành logistics

Cũng như các ngành khác trong nền kinh tế của mọi quốc gia trên thế giới, sự cạnh tranh trong ngành logistics là điều tất yếu, khó tránh khỏi. Sự cạnh tranh là động lực của sự phát triển không chỉ mỗi DN logistics mà cả nền kinh tế.

Sự cạnh tranh thúc đẩy DN logistics tìm mọi biện pháp để nâng cao hiệu quả kinh doanh, cung cấp các dịch vụ ngày càng tốt hơn, loại những yếu kém và hạn chế trong bản thân DN. Trái lại, sự cạnh tranh quá mức đặt ra thách thức to lớn cho sự phát triển và cả sự tồn tại của các DN logistics. Để thấy rò sự cạnh tranh ảnh hưởng đến sự phát triển ngành logistics như thế nào, ta có thể dựa vào mô hình năm áp lực cạnh tranh của Micheal Porter. Năm lực lượng đó là áp lực cạnh tranh của nhà cung cấp, áp lực cạnh tranh từ khách hàng, áp lực cạnh tranh từ đối thủ tiềm ẩn, áp lực cạnh tranh từ sản phẩm thay thế, áp lực cạnh tranh trong nội bội ngành.


Sơ đồ 1.2 Mô hình năm lực lượng cạnh tranh của Micheal Porter


Đối thủ

tiềm ẩn

Đe dọa của các đối thủ chưa xuất hiện


Nhà cung cấp

Khách hàng Nhà phân phối


Quyền lực đàm phán

Quyền lực đàm phán

Cạnh tranh nội bộ ngành, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đang

có mặt trên thị trường

Sản phẩm thay thế

Thách thức của sản phẩm và dịch vụ thay thế

Nguồn: Micheal Porter, 1998


g./ Liên kết và hội nhập kinh tế khu vực và thế giới trong hoạt động logistics

Liên kết và hội nhập kinh tế khu vực và thế giới là một quá trình phát triển tất yếu, do bản chất xã hội của lao động và quan hệ giữa con người. Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường cũng là động lực hàng đầu thúc đẩy quá trình hội nhập. Liên kết và hội nhập diễn ra dưới nhiều hình thức, cấp độ và trên nhiều lĩnh vực khác nhau, theo tiến trình từ thấp đến cao. Ngày nay, nó được xem là chính sách hàng đầu của hầu hết các quốc gia để phát triển mối quan hệ kinh tế trên cơ sở tự do hóa mậu dịch giữa các nước, đặc biệt là trong khuôn khổ các tổ chức kinh tế khu vực như Cộng đồng Kinh tế Châu Âu (EC), Liên minh Châu Âu (EU), Hiệp hội Mậu dịch tự do Châu Âu (EFTA), Thị trường chung Trung Mỹ (CACM), Cộng đồng Caribê và Thị trường chung (CARICOM), Khu vực Mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), v.v...

Bàn về hội nhập và liên kết kinh tế khu vực và thế giới, không thể không đề cập đến lĩnh vực logistics. Thông qua logistics, các nước trao đổi, mua bán hàng hóa, trao đổi nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ cho nhau, hình thành một thị trường toàn cầu. Có thể nói không có logistics không có thương mại quốc tế và không có phát triển kinh tế.


Theo đánh giá của Bộ Công Thương, sau 5 năm VN gia nhập nền kinh tế toàn cầu, kim ngạch xuất nhập khẩu đã tăng lên 1,86 lần và kết quả ngành dịch vụ logistics cũng tăng tương ứng từ 20% đến 25%/năm. Hiện tại đã có trên 60 hãng tàu biển, 51 hãng hàng không có tên tuổi quốc tế đang khai thác các tuyến vận tải kết nối VN với toàn cầu. Hầu hết các tập đoàn, DN logistics lớn trên thế giới đã đến đầu tư, hợp tác liên doanh với VN để tiến hành xây dựng các hạ tầng cơ sở logistics đạt chuẩn mực quốc tế. Các công ty vận tải, giao nhận phát triển có mạng lưới hoạt động trên phạm vi toàn cầu như: TNT, DHL, Maersk, NYK, APL, MOL, Kuehne & Nagel, Schenker, …

1.1.5 Phát triển ngành logistics


1.1.5.1 Nội dung phát triển ngành logistics


Thứ nhất: Xây dựng chiến lược phát triển ngành logistics. Bao gồm:

Xác định tầm nhìn phát triển ngành logistics trong khoảng thời gian đủ dài, trên cơ sở phân tích bối cảnh trong nước và quốc tế, nhất là thấy rò xu hướng vận động và phát triển ngành logistics của các nước trong khu vực.

Xây dựng chiến lược phát triển ngành logistics bao gồm nhiều nội dung, trong đó xác định rò mục tiêu, kế hoạch phát triển ngành logistics thông quá các kế hoạch ngắn hạn, trung hạn; xác định các chỉ tiêu cụ thể, gắn liền với lộ trình thực hiện các mục tiêu, kế hoạch phát triển ngành logistics. Trên cơ sở đó thực hiện chiến lược phát triển logistics.

Trong xây dựng chiến lược phát triển ngành logistics, xác định lợi thế để định hướng phát triển đúng đắn, có chất lượng.

Xây dựng chiến lược phát triển ngành logistics phải tuân thủ và quán triệt nguyên tắc xác định tầm nhìn, mục tiêu, chỉ tiêu, định hướng phát triển.

Thứ hai: Tiến hành mở cửa thị trường logistics, thực hiện tự do hóa logistics gắn với những cam kết, lộ trình và bước đi thích hợp, đảm bảo xu hướng hội nhập.

Mở cửa thị trường ngành logistics là xu thế tất yếu trong tiến trình hội nhập khu vực cũng như quốc tế, trong đó có phân tích, đánh giá lợi ích và mặt trái một cách xác đáng, thời cơ và thách thức sẽ gặp phải, thực hiện tự do hóa. Từ đó, tiến hành xây dựng những căn cứ, những nguyên tắc cam kết với các đối tác song phương và đa phương, các đối tác


khu vực. Xây dựng lộ trình thực hiện mở cửa thị trường dịch vụ logistics theo từng bước và theo nguyên tắc cụ thể. Hướng đích của mở cửa thị trường logistics nhằm phát triển dịch vụ logistics, đảm bảo hội nhập khu vực.

Thứ ba: Ứng dụng, triển khai và phát triển công nghệ - kỹ thuật mới vào phát triển ngành logistics, đặc biệt là dịch vụ tạo giá trị gia tăng, dịch vụ chất lượng cao.

Trên nền tảng kết cấu hạ tầng, kinh tế, kỹ thuật của nền kinh tế, tiến hành ứng dụng, triển khai và phát triển công nghệ kỹ thuật mới, hiện đại vào phát triển ngành logistics. Chú trọng ứng dụng CNTT vào phát triển logistics, góp phần tạo ra giá trị gia tăng cao, đóng góp tích cực vào tăng trưởng nền kinh tế, phát triển xã hội.

Thứ tư: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng ngày càng cao và sử dụng hiệu quả nguồn lao động trong ngành logistics, nhằm tạo ra dịch vụ tốt, đáp ứng nhu cầu của người đi thuê dịch vụ.

Thứ năm: Xây dựng hệ thống chính sách phù hợp thông lệ khu vực và quốc tế, thúc đẩy phát triển ngành logistics đủ sức cạnh tranh với các đối thủ.

Có nhiều chính sách để điều chỉnh, khuyến khích phát triển ngành logistics, nổi bật là: chính sách phát triển thị trường dịch vụ, chính sách đầu tư, chính sách phát triển kết cấu hạ tầng, chính sách khoa học - công nghệ, chính sách phát triển nguồn nhân lực…

Thứ sáu: Xây dựng hệ thống pháp luật phát triển ngành logistics phù hợp bối cảnh hội nhập.

Xây dựng hệ thống pháp luật với mục tiêu cuối cùng là thúc đẩy ngành logistcs phát triển, nhất là dịch vụ tạo giá trị gia tăng, đảm bảo năng lực đóng góp của ngành vào tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội.

1.1.5.2 Các tiêu chí đánh giá sự phát triển ngành logistics


Tiêu chí đánh giá động thái phát triển logistics quốc gia - chỉ tiêu LPI

LPI (Logistics Performance Index) được Ngân hàng Thế giới (WB) công bố lần đầu tiên vào năm 2007 và lần thứ hai vào đầu năm 2010. Chỉ số này cung cấp định hướng hữu ích để cơ quan chức năng của từng quốc gia có cái nhìn tổng quan và đưa ra biện pháp nâng cao khả năng hoạt động logistics cho quốc gia đó.


LPI là một công cụ đánh giá mối quan hệ tương tác giúp các quốc gia xác định những thách thức và cơ hội mà họ phải đối mặt trong hoạt động về logistics thương mại và những gì họ có thể làm để cải thiện hiệu suất.

Dữ liệu LPI năm 2010 được tổ chức dựa trên ba cách thức:

Thẻ điểm quốc gia, sử dụng sáu yếu tố quan trọng để so sánh kết quả hoạt động của các quốc gia và hiển thị chỉ số LPI tổng thể xây dựng trên sáu chỉ tiêu thành phần này. Bảng điểm cho phép so sánh các quốc gia trên toàn thế giới (với tùy chọn để hiển thị quốc gia có hoạt động logistics tốt nhất) và so sánh các quốc gia trong khu vực hoặc trong cùng một nhóm thu nhập (với tùy chọn để hiển thị quốc gia có hoạt động logistics tốt nhất theo khu vực hoặc theo nhóm thu nhập) về sáu chỉ số thành phần và chỉ số LPI tổng thể.

Xếp hạng LPI toàn cầu đưa ra điểm số về kết quả hoạt động của tất cả các quốc gia theo chỉ số LPI tổng thể cũng như theo sáu chỉ số thành phần. World Map đưa ra bản đồ màu được mã hoá cho phép chúng ta xem chỉ số LPI tổng thể cũng như sáu chỉ số thành phần của mỗi quốc gia.

So sánh các quốc gia cho phép chúng ta so sánh 20 quốc gia theo chỉ số LPI tổng thể và sáu chỉ tiêu thành phần dưới dạng biểu đồ cột. Ngoài ra, chúng ta cũng có thể so sánh với bộ dữ liệu năm 2007.

Ngân hàng Thế giới tiến hành khảo sát LPI hai năm một lần để cải thiện độ tin cậy của các chỉ số và xây dựng một bộ dữ liệu so sánh giữa các nước theo thời gian. Dự án LPI nhận được sự hỗ trợ tài chính từ Chính phủ các nước Phần Lan, Na Uy, Thụy Điển và Vương quốc Anh thông qua Quỹ ủy thác gồm nhiều nhà tài trợ cho thương mại và phát triển. Khảo sát được thiết kế và thực hiện bởi Vụ Thương mại và GTVT quốc tế của Ngân hàng Thế giới, kết hợp với Trường Kinh tế Turku (TSE) của Phần Lan. Bên cạnh đó, khảo sát LPI còn được thực hiện nhờ sự hỗ trợ và tham gia tích cực của Liên đoàn Quốc tế các Hiệp hội Vận tải giao nhận (FIATA) và Hiệp hội Chuyển phát nhanh toàn cầu (GEA).

LPI bao gồm cả những đánh giá định lượng và định tính. LPI được xây dựng dựa trên một cuộc khảo sát toàn cầu gửi đến những người hoạt động logistics (giao nhận vận tải và các hãng vận chuyển toàn cầu), cung cấp những đánh giá và phản hồi của họ về mức độ “thân thiện” của hoạt động logistics tại các quốc gia họ tiến hành hoạt động logistics và

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 30/07/2022