Phát triển ngành công nghiệp Dầu khí Việt Nam - 2


Chương 1

PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP DẦU KHÍ: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ


1.1. Khái luận về phát triển công nghiệp dầu khí

1.1.1. Một số khái niệm cơ bản

Hoạt động sản xuất kinh doanh dầu khí là một trong những hoạt động của nền kinh tế thị trường. Trong lĩnh vực này, hầu hết các quốc gia có hoạt động dầu khí đều có Luật Dầu khí riêng và trong mỗi luật đó đều đề cập đến khái niệm “dầu khí” và khái niệm “hoạt động dầu khí”. Đây chính là những khái niệm rất cần thiết.

Theo Luật Dầu mỏ của Thái Lan (1971, Điều 4) thì “Dầu khí có nghĩa là dầu thô, khí thiên nhiên, khí lỏng thiên nhiên, các sản phẩm phụ, các chất cấu thành hydrocarbon nguyên khai bất kể ở thể rắn, nửa rắn, lỏng hay khí”. Còn “Hoạt động dầu khí nghĩa là việc thăm dò, khai thác, tồn trữ, vận tải, bán và cung cấp dầu khí”.

Đối với quốc gia Malaysia, khái niệm dầu khí có nghĩa là dầu mỏ hoặc hydrocarbon tương ứng và khí thiên nhiên, tồn tại trong điều kiện tự nhiên. Khái niệm hoạt động dầu khí có nghĩa là việc tìm kiếm để nhận hoặc thu được dầu lửa ở trong nước, nhưng không bao gồm vận chuyển ở nước ngoài, quá trình lọc hoặc hóa lỏng dầu, buôn bán các sản phẩm đã lọc hoặc hóa lỏng hoặc các hoạt động dịch vụ.

Theo Luật Dầu khí Việt Nam (1993) “Dầu khí” là dầu thô, khí thiên nhiên và hydrocarbon ở thể khí, lỏng hoặc rắn trong trạng thái tự nhiên nhưng không kể than, đá phiến sét, bitum hoặc các khoáng sản khác có thể chiết xuất được dầu. “Hoạt động dầu khí” là hoạt động tìm kiếm thăm dò, phát triển mỏ và

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.


khai thác dầu khí, kể cả các hoạt động phục vụ trực tiếp cho các hoạt động này. Có nhiều cách chia hoạt động dầu khí ra thành các lĩnh vực khác nhau. Ở đây, hoạt động dầu khí được chia thành ba lĩnh vực hoạt động chính:

Phát triển ngành công nghiệp Dầu khí Việt Nam - 2


Tìm kiếm - thăm dò - thai thác

Vận chuyển - Tàng trữ

Chế biến dầu khí, kinh doanh phân phối sản phẩm

1- Hoạt động tìm kiếm - thăm dò - khai thác (còn gọi là lĩnh vực thượng nguồn, hoặc khâu đầu, hoặc Upstream) được tính từ khi bắt đầu các hoạt động khảo sát địa vật lý, xử lý tài liệu địa chấn, khoan thăm dò v.v... cho tới khi đưa dầu hoặc khí lên tới miệng giếng.

2- Hoạt động vận chuyển - Tàng trữ dầu khí (còn gọi là lĩnh vực trung nguồn, hoặc khâu giữa, hoặc Midstream) là khâu nối liền khai thác với chế biến và tiêu thụ. Quá trình phát triển của nó gắn liền với quá trình khai thác dầu khí, bao gồm các kho chứa, các hệ thống vận chuyển bằng đường ống và tàu dầu.

3- Các hoạt động thuộc lĩnh vực chế biến dầu khí, kinh doanh phân phối sản phẩm v.v... (còn gọi là lĩnh vực hạ nguồn, hoặc khâu sau, hoặc Downstream): bao gồm các hoạt động lọc, hoá dầu, chế biến dầu và khí. Nó được tính từ khi nhận dầu (hay khí) từ nơi xuất của khu khai thác đến quá trình lọc, chế biến, hoá dầu và kinh doanh phân phối các sản phẩm dầu, khí đó.

Trên thế giới, mỗi công đoạn có sức hấp dẫn riêng của nó và có quan hệ phụ thuộc hoặc quyết định chi phối lần nhau.


1.1.2. Đặc trưng chung của ngành công nghiệp Dầu khí


Qua quá trình hoạt động và phát triển của ngành công nghiệp dầu khí, đứng trên góc độ của nhà đầu tư, có thể rút ra các đặc trưng chính của ngành công nghiệp dầu khí như sau:

Chịu nhiều rủi ro


Hoạt động dầu khí liên quan tới tìm kiếm tài nguyên thiên nhiên dưới lòng đất nên không thể khẳng định một cách chắc chắn kết quả của quá trình đầu tư. Đôi khi có thể đầu tư lớn nhưng không thu được hoặc thu không đủ vốn đầu tư. Những rủi ro đó không chỉ tuỳ thuộc vào điều kiện tự nhiên (địa chất) mà cả điều kiện về kinh tế, chính trị. Rủi ro lớn nhất trong hoạt động dầu khí là rủi ro trong tìm kiếm - thăm dò vì có thể làm mất toàn bộ vốn đầu tư. Trong đó, rủi ro về trữ lượng và khả năng khai thác là lớn nhất. Các hoạt động trong các khâu khác (lọc, hoá dầu, xử lý, vận chuyển, phân phối, kinh doanh sản phẩm dầu khí v.v...) ít chịu rủi ro hơn trong chính bản thân của khâu đó (chỉ làm giảm lợi nhuận của quá trình đầu tư đó), nhưng lại gián tiếp chịu rủi ro do khâu tìm kiếm - thăm dò mang lại. Chẳng hạn trong lĩnh vực lọc, hoá dầu và chế biến kinh doanh chịu rủi ro về sản lượng và chủng loại dầu thô cung cấp, rủi ro về giá dầu thô v.v... Ngoài ra, rủi ro về thị trường là rủi ro lớn nhất trong lĩnh vực này.

Ứng dụng công nghệ cao và cần lượng vốn đầu tư lớn


Dầu khí là ngành công nghiệp phát triển trên thế giới. Trong suốt quá trình phát triển đó, do điều kiện khai thác dầu khí tại những vùng nước sâu, xa bờ, điều kiện địa chất thủy văn phức tạp nên đòi hỏi lĩnh vực này phải ứng dụng hầu như tất cả những công nghệ tiên tiến nhất đã được phát minh trên thế giới trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong hoạt động dầu khí, nếu không ứng dụng công nghệ tiên tiến thì không thể thu được kết quả. Để ứng dụng được


những công nghệ cao thì cần phải có một lượng vốn đầu tư khá lớn. Do vậy, mọi nhà đầu tư vào lĩnh vực dầu khí đều phải tính đến khả năng sử dụng lượng vốn lớn và ứng dụng công nghệ tiên tiến nhất hiện có.

Mang tính quốc tế


Do chịu nhiều rủi ro và sử dụng vốn đầu tư lớn cho nên hợp tác quốc tế trở thành một đặc thù mang tính phổ biến của ngành Dầu khí. Rất khó có thể tìm thấy một công ty hay quốc gia nào có hoạt động dầu khí lại không có hợp tác quốc tế.

Hợp tác quốc tế nhằm mục đích san sẻ rủi ro và tạo ra một lượng vốn đầu tư đủ lớn cho hoạt động của mình. Tuỳ thuộc điều kiện cụ thể của mỗi nước hay mỗi công ty chú ý nhiều hơn tới từng mục tiêu cụ thể. Với các nước có tiềm lực lớn về vốn và mạnh về công nghệ thì hợp tác quốc tế chủ yếu nhằm mục đích san sẻ rủi ro. Với Việt Nam, do hoạt động dầu khí còn non trẻ nên hợp tác quốc tế vừa để san sẻ rủi ro, vừa để huy động vốn, công nghệ và học tập kinh nghiệm của nước ngoài.

Lĩnh vực đầu tư có khả năng đem lại siêu lợi nhuận


Khi các phát hiện dầu, khí có tính thương mại và đưa vào phát triển, khai thác thì sẽ thu được một khoản lợi nhuận lớn. Thông thường, nếu có phát hiện thương mại, chi phí cho một thùng dầu chỉ bằng khoảng 1/3 giá bán. Chẳng hạn, khu vực Trung Đông là khu vực có tiềm năng dầu khí lớn, chi phí sản xuất chỉ khoảng 1USD/thùng; trong khi đó giá bán có lúc đạt trên 30 USD/thùng. Có thể nói, nhờ đặc trưng rất hấp dẫn này mà các nhà đầu tư đã chấp nhận rủi ro để bỏ vốn đầu tư vào hoạt động dầu khí. Trong các lĩnh vực trên, hoạt động trong lĩnh vực thượng nguồn có sức hấp dẫn cao nhất (mặc dù có rủi ro lớn) vì thu được nhiều lợi nhuận nhất. Trong lĩnh vực hạ nguồn, đầu tư vào hoạt động kinh doanh, bán lẻ có thể thu được lợi nhuận lớn, còn đầu tư


vào lọc dầu ít có sức hấp dẫn vì lợi nhuận không cao (đôi khi còn bị lỗ). Tuy nhiên, người ta vẫn đầu tư vào khâu này vì nhiều mục đích khác nhau, trong đó, quan trọng nhất là vì chiến lược an toàn năng lượng và làm tiền đề cho các ngành công nghiệp khác phát triển (công nghiệp hoá chất, phân bón v.v...).

Công nghiệp dầu khí có tính lan tỏa cao:


Sự phát triển của ngành công nghiệp dầu khí có tính lan tỏa cao và ảnh hưởng đến thị trường cũng như sự phát triển của các ngành khác. Sự gắn liền và nhạy cảm với thị trường được xem xét trên hai góc độ:

+ Thị trường cho các sản phẩm thượng nguồn (dầu thô) là thị trường thế giới, việc mua bán, giá cả theo thị trường thế giới. Sự biến động giá cả theo sự biến động chung trên thị trường thế giới. Trên thực tế, không bao giờ xẩy ra giá bán dầu thô thấp hơn chi phí sản xuất.

+ Nguyên liệu đầu vào và thị trường tiêu thụ sản phẩm (đầu ra) của lĩnh vực hạ nguồn rất nhạy cảm về thị trường. Nguyên liệu cho các hoạt động lọc dầu chủ yếu là dầu thô. Trong khi đó, thực tế cho thấy thường xuyên có sự không ổn định về giá dầu thô. Điều đó làm ảnh hưởng nhiều đối với hoạt động lọc dầu ở Việt Nam. Đối với hoạt động hoá dầu nguyên liệu chủ yếu từ các khu vực Mỹ và Châu Âu. Trong bối cảnh hiện nay có nhiều diễn biến phức tạp, tính không ổn định này cũng tạo ra những ảnh hưởng lớn đối với hoạt động trên lĩnh vực hóa dầu ở Việt Nam. Đối với việc tiêu thụ sản phẩm sản xuất được cũng có nhiều thay đổi có thể làm ảnh hưởng tới những định hướng chiến lược phát triển lĩnh vực này.

Do vậy, khi quyết định đầu tư cho một dự án dầu khí nói chung cần phải tính đến tính nhạy cảm của thị trường và hiệu quả kinh tế của dự án. Vì tính chất nhạy cảm và không ổn định đó, khi đầu tư, người đầu tư không chỉ tính tới


những lợi ích về kinh tế của dự án mà cần tính đến những lợi thế khác, đặc biệt là chính sách an toàn năng lượng quốc gia.

1.1.3. Vai trò của công nghiệp dầu khí


Dầu khí là nguồn năng lượng quan trọng trong quá khứ, hiện tại và tương lai của thế giới. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nguồn năng lượng dầu khí đã được phát hiện và được con người khai thác, sử dụng với quy mô và sản lượng ngày càng lớn. Đặc biệt từ những năm 50 của thế kỷ XX cho đến nay, dầu khí đã trở thành nguồn năng lượng chủ yếu được sử dụng rộng khắp trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo thống kê của BP, trong cơ cấu tiêu thụ năng lượng hiện tại, dầu khí chiếm 61,5%, than là 26,5%, năng lượng hạt nhân là 6% và thủy điện là 6%. Dự báo trữ lượng dầu khí thế giới còn khoảng 162 tỷ tấn dầu (có khả năng khai thác thêm 30 năm) và 180 nghìn

tỷ m3 khí (có thể khai thác thêm 70 năm) do đó dầu khí trong tương lai vẫn là

nguồn năng lượng, nguyên liệu chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn trong các nguồn năng lượng của thế giới.

Đối với những quốc gia có tiềm năng dầu khí, việc tìm kiếm thăm dò, khai thác, kinh doanh dầu khí trở thành một ngành công nghiệp mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân và mang lại lợi nhuận cao. Xuất phát từ nguồn thu nhập và lợi nhuận cao nên việc tích tụ tư bản từ dầu khí thường nhanh chóng và lớn. Vì vậy, dầu khí có ưu thế trong việc đóng góp vào ngân sách quốc gia và hỗ trợ cho các ngành khác phát triển. Ngoài ra, dầu khí còn là nguồn cung cấp năng lượng cho hoạt động an ninh, quốc phòng, một yếu tố không thể thiết trong việc đảm bảo sự ổn định và phát triển của mỗi quốc gia.

Thị trường dầu khí có quy mô lớn, cạnh tranh quyết liệt và ảnh hưởng đến lợi ích của hầu hết các quốc gia, đáng chú ý là mâu thuẫn trong quan hệ sở hữu và sử dụng dầu khí giữa những quốc gia có nền kinh tế phát triển, tiềm năng


dầu khí hạn chế nhưng mức tiêu thụ nhiều như Mỹ, Nhật bản, một số nước Châu Âu, các nước đang phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ với các nước có tiềm năng dầu khí lơn, tiêu thụ ít, sản lượng khai thác cao và xuất khẩu nhiều như Ả rập xê út, I rắc, Cô oét,... Đây chính là mối quan hệ hết sức phức tạp vì thực chất dầu khí là loại năng lượng hành hóa mang tính chiến lược đặc thù, một nguồn năng lượng không tái sinh, trong khi đó lại phân bố không đồng đều. Chính vì vậy, trên trường quốc tế hiện nay, dầu khí được xem là lĩnh vực quan trọng, chi phối đáng kể các quan hệ chính trị, ngoại giao cũng như các mối quan hệ liên quan khác giữa các quốc gia trong khu vực và trên phạm vi toàn thế giới. Các nước trên thế giới đang tích cực thực hiện chiến lược nắm giữ các nguồn dầu mỏ trên thế giới. Các cuộc chiến tranh, xung đột chính trị gần đây trên thế giới đều liên quan đến dầu mỏ.

Đối với nền kinh tế của Việt Nam, dầu khí có vai trò rất quan trọng trong quá trình CNH-HĐH. Công nghiệp dầu khí là ngành kinh tế, kỹ thuật đa ngành và liên ngành, là khâu đầu cung cấp nguyên, nhiên vật liệu và các sản phẩm hóa dầu cho các ngành công nghiệp khác như điện lực, hóa chất, …

Hàng năm, ngành dầu khí đã có những đóng góp rất lớn (từ 20-25%) vào tổng thu ngân sách Nhà nước.

Sự phát triển của ngành dầu khí ngoài việc mang lại hiệu quả kinh tế cao còn góp phần đảm bảo an ninh năng lượng trong nước và thúc đẩy phát triển KT- XH của các địa phương.

Với vai trò quan trọng như vậy, có thể nói rằng bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới muốn đạt được mục tiêu tăng trưởng và phát triển cũng như duy trì được sự ổn định về chính trị xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng đều phải có chiến lược phát triển an ninh năng lượng dầu khí với sự duy trì nguồn cung cấp đầy đủ, ổn định và giá cả hợp lý.


1.1.4. Điều kiện và nội dung phát triển ngành công nghiệp dầu khí

a. Điều kiện phát triển công nghiệp dầu khí:


Điều kiện để ngành công nghiệp dầu khí phát triển phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nguồn tài nguyên dầu khí trong nước; khả năng ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại; trình độ nguồn nhân lực kỹ thuật và quản lý; vốn đầu tư; hợp tác quốc tế; đầu tư ra nước ngoài; chính sách, khung pháp lý của Nhà nước…

- Tiềm năng dầu khí: Nguồn tài nguyên dầu khí trong nước có vai trò rất quan trọng, là điều kiện cần để phát triển ngành công nghiệp dầu khí. Trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam là nước có nguồn tài nguyên dầu khí, với sản lượng khai thác hàng năm khoảng 17 - 20 triệu tấn dầu quy đổi và là quốc gia xuất khẩu dầu thô lớn thứ ba trong khu vực. Với nhu cầu hiện nay, nếu có nhà máy lọc dầu, Việt Nam có đủ khả năng đáp ứng nhu cầu xăng dầu cho nền kinh tế quốc dân. Đó là thế mạnh đối với PVN. Trong khi đó rất nhiều quốc gia không có được tiềm năng về tài nguyên như chúng ta.

- Hợp tác quốc tế:


Hợp tác kinh tế là tiền đề tạo điều kiện cho ngành Dầu khí Việt Nam phát triển. Trong giai đoạn hiện nay, hội nhập càng có tác động tích cực hơn cho sự phát triển đó. Việt Nam cần phải hội nhập và không nên loại trừ bất cứ một ngành kinh tế nào. Cần coi hội nhập là điều kiện và phương tiện để phát triển ngành Dầu khí cả ở trong và ngoài nước. Hội nhập không chỉ giúp ngành Dầu khí thu hút vốn và công nghệ đầu tư nước ngoài vào ngành Dầu khí trong nước, tạo ra thị trường để tiêu thụ sản phẩm của Ngành mà còn tạo điều kiện để Việt Nam mở rộng đầu tư cho hoạt động dầu khí ra nước ngoài. Tuy nhiên, cần có bước đi thích hợp cho từng lĩnh vực hoạt động của Ngành. Để thực hiện chủ trương đó, PVN cần có sự

Ngày đăng: 18/10/2024