đi thực tập sư phạm và giai đoạn đầu khi mới ra trường, họ thường lúng túng, vấp váp, quá trình thích ứng nghề chậm hơn nhiều so với sinh viên nói trên.
Vì vậy, trường sư phạm không chỉ dạy văn hoá chuyên môn mà còn là một trường dạy nghề “Nghề thầy giáo”. Bên cạnh việc trang bị cho sinh viên hệ thống tri thức về văn hoá chuyên môn còn cần trang bị cho họ hệ thống tri thức về sư phạm cần thiết để tổ chức hoạt động dạy học và giáo dục. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, đội ngũ giảng viên, đặc biệt là giảng viên Tâm lí, Giáo dục, Phương pháp giảng dạy bộ môn cần phối hợp chặt chẽ với bộ môn, khoa và phòng đào tạo để tạo ra một sức mạnh tổng hợp trong việc rèn luyện tay nghề cho sinh viên. Quá trình huấn luyện tay nghề cho sinh viên cần tổ chức theo hướng tác động đồng bộ cả tri thức, kĩ năng và các phẩm chất nghề nghiệp.
1.6.2. Năng lực của giảng viên
Năng lực sư phạm không chỉ có ý nghĩa quan trọng với sinh viên mà còn có vai trò đặc biệt quan trọng với giảng viên. Giảng viên muốn chuyển tải kiến thức chuyên môn, kĩ năng nghiệp vụ đến người học phải thông qua năng lực và nghiệp vụ sư phạm của bản thân. Vì vậy, đòi hỏi đội ngũ giảng viên phải có năng lực sư phạm thuần thục, mang tính kĩ xảo và nghệ thuật chuyên nghiệp. Năng lực sư phạm của giảng viên càng cao thì việc cung cấp hệ thống kiến thức cho sinh viên càng dễ dàng và đạt hiệu quả; qua đó giảng viên định hướng hình thành năng lực sư phạm cho sinh viên, thông qua kĩ năng sư phạm mà giảng viên sử dụng, sinh viên sẽ được quan sát, học tập và thực hiện một số kĩ năng sư phạm từ giảng viên. Mặt khác, kĩ năng sư phạm mà giảng viên sử dụng thành thạo, vững chắc sẽ tạo cơ hội hướng dẫn sinh viên tự học, tự rèn luyện để nắm vững chuyên môn và hình thành năng lực sư phạm nói chung, năng lực dạy học nói riêng ở trường phổ thông sau này.
Kết quả nghiên cứu của các nhà lí luận dạy học hiện đại cho thấy, sự tác động qua lại giữa hoạt động dạy và học được phản ánh tập trung trong qúa trình tổ chức và điều khiển, tự tổ chức và tự điều khiển trong hệ thống thầy - trò, trò - trò và hệ thống trò - tài liệu học tập. Trong hệ thống giảng viên với hoạt động dạy, sinh viên với hoạt động học, người giảng viên giảng dạy ở các trường sư phạm giữ vai trò chủ đạo với tư cách là chủ thể tác động sư phạm nhằm vào hai đối tượng điều khiển: sinh viên và hoạt động nhận thức của họ.
Để tổ chức tốt hoạt động dạy học ngành sư phạm nghệ thuật cần có các điều kiện cơ bản đặc thù. Giảng viên không chỉ là những nhà chuyên môn, nhà phương
pháp mà còn là những nhà nghệ thuật. Họ phải có tri thức chuyên sâu vững chắc, có nhiệt huyết với nghề và giàu kinh nghiệm thực hành. Họ không chỉ là nhà lí luận để dạy lí thuyết mà còn là nhà thực hành thành thạo để hướng dẫn thực hành cho sinh viên. Họ phải vững vàng về nghiệp vụ sư phạm; phải là những người vẽ giỏi hoặc hát hay, đàn tốt, biểu diễn truyền cảm...
1.6.3. Kiểm tra, đánh giá
Có thể bạn quan tâm!
- Năng Lực Dạy Học Của Sinh Viên Đhsp Nghệ Thuật
- Các Năng Lực Dạy Học Cơ Bản Của Sinh Viên Đhsp Nghệ Thuật
- Cấu Trúc Của Quá Trình Phát Triển Năng Lực Dạy Học Và Con Đường Phát Triển Năng Lực Dạy Học Cho Sinh Viên Đhsp Nghệ Thuật Dựa Vào Giáo Dục Trải
- Cơ Sở Vật Chất Và Thiết Bị Dạy Học Đhsp Nghệ Thuật
- Đánh Giá Năng Lực Thực Hiện Các Biện Pháp Và Kĩ Thuật Dạy Học Cụ Thể Trong Dạy Học Nghệ Thuật
- Tổng Hợp Chung Về Năng Lực Dạy Học Của Sinh Viên Đhsp Nghệ Thuật
Xem toàn bộ 233 trang tài liệu này.
Kiểm tra, đánh giá ảnh hưởng mạnh mẽ đến kết quả tập luyện của sinh viên. Nếu quá trình tập luyện được phân thành những giai đoạn cụ thể, mỗi giai đoạn đều có kiểm tra, đánh giá chặt chẽ thì kết quả rèn luyện của sinh viên sẽ cao hơn. Đặc biệt, kết quả đánh giá quá trình tập luyện gắn với kết quả học tập và rèn luyện của sinh viên thì hiệu quả tập luyện càng nâng lên rõ rệt.
Trong đánh giá sự phát triển năng lực dạy học của sinh viên sử dụng kết hợp đánh giá quá trình và đánh giá kết quả. Đánh giá quá trình giúp người học hiểu rõ sự phát triển năng lực dạy học của bản thân ở từng giai đoạn, thời điểm và khuyến khích sinh viên tập luyện tốt hơn. Đánh giá kết quả để xác định kết quả cuối cùng mà người học đạt được.
1.6.4. Môi trường, điều kiện rèn luyện phát triển năng lực dạy học
Khác với các trường đào tạo nghề khác, trường nghệ thuật là một trường đào tạo nghề mang tính đặc thù. Không chỉ đào tạo các chuyên ngành nghệ thuật mà còn đào tạo giáo viên trẻ năng khiếu nghệ thuật cho thế hệ trẻ tương lai của đất nước. Vì vậy điều kiện phương tiện dạy học cũng mang tính đặc thù riêng để thực hiện tốt hình thức dạy học đặc thù theo cá nhân - nhóm... Trang thiết bị, phương tiện dạy học và môi trường rèn luyện là một yếu tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo.
Xây dựng cơ sở vật chất đảm bảo yêu cầu dạy học theo hướng phát huy hết công xuất những phòng học đã có, đồng thời ưu tiên đầu tư trang thiết bị tiên tiến cho những phòng học chuyên ngành, đề cao và khuyến khích vai trò tự học của sinh viên, tạo điều kiện cho sinh viên sử dụng các thiết bị phù hợp với môi trường đào tạo mang tính đặc thù nghệ thuật như ưu tiên phòng chuẩn để dạy học thực hành. Đối với sinh viên sư phạm Mĩ thuật cần có phòng học lí thuyết, phòng thực hành. Phòng học thực hành hình họa, bố cục, trang trí, điêu khắc...phải đảm bảo độ phối sáng chuẩn (ánh sáng một chiều), có không gian rộng, thoáng, có đồ dùng dạy học trực quan (các bộ xương người bằng nhựa và tranh, giá vẽ, tượng mẫu, vật mẫu, tranh ảnh...). Đối với sinh viên sư phạm Âm nhạc có phòng học lí thuyết, thực hành, thanh nhạc, nhạc cụ.
Các phòng học thanh nhạc và nhạc cụ phải có đàn piano, gương soi, hệ thống cách âm (bá âm) 100% để giữ âm thanh phát ra âm thật, không bị pha tạp, vừa không bị âm thanh ngoài vào làm ảnh hưởng chất lượng giảng dạy. Ngoài ra, phải có nhà biểu diễn đầy đủ các trang thiết bị để sinh viên tham gia hội diễn, tổ chức các hội thi năng khiếu. Bên cạnh đó, Thư viện nhà trường cần có nhiều đầu sách khoa học cơ bản, khoa học cơ sở, khoa học chuyên ngành, nghiệp vụ để phục vụ và đáp ứng nhu cầu học tập của sinh viên.
Tóm lại, năng lực dạy học là một yếu tố hết sức quan trọng đối với giáo viên Âm nhạc, Mĩ thuật ở trường phổ thông. Ngày nay, dạy học theo định hướng phát triển năng lực là một hướng lựa chọn phù hợp để có thể đảm bảo yêu cầu cách mạng trong giáo dục hiện đại. Tuy nhiên, nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu như: dạy học theo định hướng phát triển năng lực sẽ cần có một chương trình đào tạo luôn thích ứng với yêu cầu xã hội, đồng thời cần có đội ngũ giảng viên có năng lực nghệ thuật và năng lực sư phạm đảm bảo tốt nhất việc triển khai quá trình dạy học. Mặt khác, một cơ sở đào tạo sư phạm nghệ thuật muốn triển khai dạy học theo định hướng phát triển năng lực sẽ khó khăn nhiều hơn các cơ sở đào tạo khác. Do vậy, các trường sư phạm nghệ thuật phải có quyết tâm cao hơn, đổi mới quản lý đào tạo một cách tích cực, tạo môi trường dạy học tương thích để mục tiêu đào tạo gắn với yêu cầu xã hội mới có thể đạt hiệu quả tốt nhất.
Kết luận chương 1
Chương 1 của Luận án đã phản ánh các kết quả nghiên cứu cơ bản về tổng quan vấn đề nghiên cứu, tổng hợp và phân tích các khái niệm cơ bản của đề tài về năng lực và phát triển năng lực dạy học, về giáo dục trải nghiệm và phát triển năng lực dạy học cho sinh viên ĐHSP Nghệ thuật dựa vào giáo dục trải nghiệm. Năng lực là một vấn đề hết sức phức tạp trong Tâm lí học và Giáo dục học. Các nhà nghiên cứu đã có những quan niệm khác nhau về năng lực. Tuy giữa các quan niệm có khác nhau nhưng không mâu thuẫn nhau. Sự khác nhau chủ yếu ở chỗ mở rộng hay thu hẹp khái niệm. Khái niệm về năng lực xác định là: Năng lực là tổ hợp các yếu tố kiến thức, kĩ năng, thái độ và kinh nghiệm cá nhân cho phép cá nhân thực hiện có hiệu quả một hoạt động trong các điều kiện cụ thể và theo các chuẩn mực nhất định.
Trên cơ sở khái niệm năng lực, chương 1 của Luận án đã hình thành khái niệm năng lực dạy học và phát triển năng lực năng lực dạy học với các nội hàm cụ thể là:
Năng lực dạy học là tổ hợp các yếu tố kiến thức, kĩ năng, thái độ sư phạm và kinh nghiệm cá nhân cho phép giáo viên thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ dạy học theo chuẩn đặt ra, trong những điều kiện nhất định.
Phát triển năng lực dạy học là quá trình sinh viên thực hành, luyện tập một cách thường xuyên, hệ thống các hoạt động dạy học theo mục tiêu, nội dung, quy trình chuẩn thực hiện công việc trong một thời gian nhất định để họ tích lũy và có được hệ thống năng lực nhằm thực hiện mục tiêu dạy học ngày càng đạt hiệu quả cao.
Giáo dục trải nghiệm là mô hình học tập mà ở đó người dạy tập trung vào quá trình tạo ra các trải nghiệm và dẫn dắt người học chủ động học tập bằng trải nghiệm thông qua những môi trường và điều kiện nhất định với sự sáng tạo của cá nhân trong việc kết nối kinh nghiệm học được trong nhà trường với thực tiễn của đời sống, của nghề nghiệp nhờ đó các kinh nghiệm được tích lũy thêm và dần chuyển hoá thành năng lực thực tiễn, phẩm chất và năng lực sáng tạo đa dạng của các em.
Bằng việc làm rõ các khái niệm có liên quan như năng lực, năng lực dạy học, phát triển năng lực dạy học; phân tích đặc điểm đào tạo ĐHSP Nghệ thuật, chương 1 của Luận án đã xác lập được hệ thống các năng lực dạy học của sinh viên ĐHSP Nghệ thuật bao gồm: Năng lực nghiên cứu người học và chương trình dạy học; Năng lực lãnh đạo người học và quản lí hành vi học tập; Năng lực thiết kế dạy học; Năng lực dạy học trực tiếp.
Từ việc phân tích vai trò và đặc điểm của giáo dục trải nghiệm trong phát triển năng lực dạy học cho sinh viên ĐHSP Nghệ thuật; Luận án cũng đã xác định các thành tố và con đường phát triển năng lực dạy học cho sinh viên ĐHSP Nghệ thuật dựa vào giáo dục trải nghiệm. Các thành tố đó là: Mục tiêu phát triển, nội dung phát triển và phương pháp phát triển. Các con đường trải nghiệm để phát triển năng lực dạy học cho sinh viên ĐHSP Nghệ thuật gồm: (1) Qua hoạt động dạy học, (2) Qua hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên và tổ chức Hội thi Nghiệp vụ sư phạm trong trường, (3) Qua các hoạt động thực hành, kiến tập, thực tập sư phạm.
Từ đó, xác yếu tố ảnh hưởng đến phát triển năng lực dạy học của sinh viên ĐHSP Nghệ thuật dựa vào giáo dục trải nghiệm, gồm: (1) Tính tích cực rèn luyện và năng khiếu bẩm sinh của sinh viên; (2) Năng lực sư phạm của giảng viên; (3) Kiểm tra, đánh giá; (4) Môi trường, điều kiện rèn luyện phát triển năng lực dạy học.
Những kết quả nghiên cứu ở chương 1 đã tạo cơ sở lí luận để giải quyết các nhiệm vụ, nội dung nghiên cứu ở các chương tiếp theo của Luận án.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC DẠY HỌC CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT DỰA VÀO GIÁO DỤC TRẢI NGHIỆM
2.1. Giới thiệu quá trình khảo sát thực trạng
2.1.1. Mục đích, đối tượng và phạm vi khảo sát
- Mục đích khảo sát:
Điều tra, khảo sát thực tế nhằm thu thập số liệu để đánh giá thực trạng phát triển năng lực dạy học cho sinh viên ĐHSP Nghệ thuật dựa vào giáo dục trải nghiệm một cách khách quan, cụ thể để phân tích, tìm ra ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong phát triển năng lực dạy học cho sinh viên, làm cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất các nội dung đổi mới khắc phục những hạn chế đó.
- Đối tượng khảo sát:
Để có thông tin làm cơ sở cho việc phân tích thực trạng phát triển năng lực dạy học cho sinh viên ĐHSP Nghệ thuật dựa vào giáo dục trải nghiệm, đã điều tra, khảo sát trên sinh viên và giảng viên chuyên ngành ĐHSP Âm nhạc, ĐHSP Mĩ thuật tại một số trường đào tạo ĐHSP Âm nhạc, ĐHSP Mĩ thuật và giáo viên dạy môn Âm nhạc, Mĩ thuật tại các trường THCS.
- Phạm vi khảo sát:
Luận án được nghiên cứu ở một số trường đào tạo ĐHSP Nghệ thuật (Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa; ĐHSP Hà Nội; ĐHSP Nghệ thuật Trung ương) và một số trường THCS trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
2.1.2. Nội dung khảo sát
Quá trình điều tra, khảo sát tập trung vào những nội dung sau:
+ Khảo sát thực trạng năng lực dạy học của sinh viên ĐHSP Nghệ thuật.
+ Khảo sát thực trạng nhận thức về phát triển năng lực dạy học nghệ thuật dựa vào giáo dục trải nghiệm.
+ Khảo sát thực trạng phát triển năng lực dạy học cho sinh viên ĐHSP Nghệ thuật dựa vào giáo dục trải nghiệm.
2.1.3. Phương pháp khảo sát
- Phương pháp quan sát sư phạm
Tiến hành quan sát hoạt động phát triển năng lực dạy học của sinh viên trong các giờ học rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên, kiến tập, thực tập sư phạm,
trong Hội thi Nghiệp vụ sư phạm, giải quyết các tình huống sư phạm, thực hành phát triển năng lực dạy học của sinh viên.
Dự giờ 16 bài giảng của sinh viên trong các giờ học rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên, kiến tập, thực tập sư phạm (8 bài giảng ở nhóm thực nghiệm, 8 bài giảng ở nhóm đối chứng) tại trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa để thu thập thông tin phục vụ cho việc đánh giá thực trạng phát triển năng lực dạy học và thực nghiệm biện pháp phát triển năng lực dạy học cho sinh viên ĐHSP Nghệ thuật dựa vào giáo dục trải nghiệm.
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
Để có thông tin làm cơ sở cho việc phân tích thực trạng phát triển năng lực dạy học cho sinh viên ĐHSP Nghệ thuật, tác giả đã khảo sát bằng phiếu hỏi với 399 sinh viên, giảng viên chuyên ngành ĐHSP Âm nhạc, ĐHSP Mĩ thuật và giáo viên dạy môn Âm nhạc, môn Mĩ thuật tại các trường THCS; cụ thể:
Mẫu số 1: Khảo sát 287 sinh viên (92 sinh viên trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa; 98 sinh viên trường ĐHSP Hà Nội; 98 sinh viên ĐHSP Nghệ thuật Trung ương).
Mẫu số 2: Khảo sát 57 giảng viên (18 giảng viên trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa; 19 giảng viên trường ĐHSP Hà Nội; 20 giảng viên trường ĐHSP Nghệ thuật Trung ương).
Mẫu số 3: Khảo sát 55 giáo viên tại 18 trường THCS trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. (Các mẫu phiếu khảo sát xem phụ lục số 2,3,4)
- Phương pháp điều tra bằng phỏng vấn trực tiếp
Tác giả đã thực hiện phỏng vấn trực tiếp 6 nhà khoa học, 12 giảng viên, 8 cán bộ quản lý tại 3 trường đào tạo ĐHSP Nghệ thuật; 50 giáo viên cơ sở về phát triển năng lực dạy học cho sinh viên ĐHSP Nghệ thuật dựa vào giáo dục trải nghiệm.
2.2. Khái quát về các trường đào tạo ĐHSP Nghệ thuật
2.2.1. Quá trình đào tạo
2.2.1.1. Lịch sử nhà trường
Trong những năm 70 - 80 của thế kỷ XX, nhiệm vụ đào tạo giáo viên Âm nhạc và Mĩ thuật cho trường phổ thông chủ yếu tập trung ở trường CĐSP Nhạc Họa Trung ương (nay là trường ĐHSP Nghệ thuật Trung ương). Sau đó, vào thập niên 90 của thế kỷ XX, các trường Đại học, CĐSP, các trường Văn hóa nghệ thuật địa phương cũng đào tạo các ngành này. Tuy nhiên, ở các trường này, Âm nhạc, Mĩ thuật chỉ là một
môn ghép với các môn khác thành một bộ môn hoặc một khoa. Việc tuyển sinh không thường xuyên mà phụ thuộc vào nhu cầu của địa phương qua từng giai đoạn.
Từ năm 2002 trở lại đây, trước yêu cầu giáo dục con người toàn diện, nhu cầu cần có giáo viên chuyên trách dẫn đến nhiều trường TCSP, CĐSP, ĐHSP và trường Văn hóa Nghệ thuật địa phương đào tạo giáo viên Âm nhạc, Mĩ thuật dưới nhiều hình thức, nổi bật nhất là liên kết đào tạo. Một số trường đại học thành lập khoa Sư phạm Âm nhạc, Sư phạm Mĩ thuật hoặc khoa Sư phạm Nghệ thuật. Có thể thấy, lúc này vai trò của các trường đào tạo giáo viên Âm nhạc, Mĩ thuật được đặc biệt chú trọng.
Hiệu quả giáo dục nghệ thuật cho học sinh phổ thông trong những thập kỷ qua, cần phải nói đến công sức, thành quả đào tạo của các trường, khoa Sư phạm Nghệ thuật, với “vị trí đầu đàn” gần 50 năm truyền thống của trường ĐHSP Nghệ thuật Trung ương, Khoa Giáo dục Nghệ thuật của trường ĐHSP Hà Nội với hơn 40 năm đào tạo giáo viên Âm nhạc, Mĩ thuật tại Thủ đô và một vài trường CĐSP địa phương.
Tại Thanh Hóa, trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa, tiền thân là trường Sơ cấp Văn hóa - Nghệ thuật (1968), đến năm 1970 nâng cấp thành Trung cấp Văn hóa - Nghệ thuật, năm 2004 nâng cấp lên trường Cao đẳng Văn hóa - Nghệ thuật và đến năm 2011 được nâng cấp lên Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa. Nhà trường đào tạo đa ngành, đa hệ, trong đó có đào tạo lĩnh vực Sư phạm Âm nhạc, Sư phạm Mĩ thuật. Từ những năm 1981 trường đào tạo bậc Trung cấp; đến năm 1997 đào tạo Cao đẳng, từ 2012 đào tạo ĐHSP Âm nhạc, Mĩ thuật.
2.2.1.2. Quy mô đào tạo chuyên ngành sư phạm nghệ thuật
Năm 2002, khi bắt đầu triển khai thay Sách giáo khoa giáo dục Âm nhạc, Mĩ thuật đại trà, chỉ có khoảng 35% số trường Tiểu học, và THCS có giáo viên chuyên trách dạy Âm nhạc, Mĩ thuật.
Năm 2009, theo thông tin từ Bộ Giáo dục và đào tạo, cả nước thiếu gần 10.000 giáo viên Mĩ thuật và Âm nhạc.
Năm 2012, đội ngũ giáo viên Âm nhạc, Mĩ thuật trong toàn quốc lớn mạnh hơn nhiều cả về số lượng cũng như chất lượng. Một số thành phố lớn, một số địa phương đã đáp ứng khoảng 90% nhu cầu giáo viên Âm nhạc/ Mĩ thuật của các trường.
Năm 2016, theo số liệu thống kê của Vụ Giáo dục Tiểu học và Vụ Giáo dục Trung học, số lượng giáo viên dạy các môn nghệ thuật đã đủ cho 15.254 trường Tiểu học và 10.911 trường THCS cả nước. Tuy nhiên, trên thực tế thì số lượng giáo viên nghệ thuật đang ở tình trạng mất cân đối. Đa số các trường ở thành phố, thị xã, thị
trấn mới có giáo viên dạy chuyên trách; còn các trường ở vùng khó khăn, vùng miền núi xa xôi thì hầu như còn thiếu giáo viên dạy các môn này.
Hiện nay, trong chương trình giáo dục phổ thông, môn Âm nhạc và Mĩ thuật thuộc khối kiến thức bắt buộc từ Tiểu học đến THCS. Tháng 7 năm 2017, Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể đã chính thức thông qua. Trong đó, môn nghệ thuật được đưa vào cả ba cấp học: TH, THCS (môn học bắt buộc), THPT (môn tự chọn). Điều này dẫn đến sự thiếu đồng bộ trong chương trình giáo dục phổ thông hiện hành cũng như vai trò hướng nghiệp cho học sinh có năng khiếu nghệ thuật từ bậc THPT lên bậc học cao hơn (Trung học chuyên nghiệp, Cao đẳng và Đại học).
2.2.1.3. Đội ngũ giảng viên dạy học Âm nhạc, Mĩ thuật
Đội ngũ giảng viên tại các khoa, các trường đào tạo chuyên ngành Sư phạm Âm nhạc, Sư phạm Mĩ thuật, phần lớn được đào tạo bài bản, chính quy trong các trường nghệ thuật lớn mang tính hàn lâm. Họ được đào tạo kĩ năng chuyên sâu về chuyên môn nhưng lí luận, kiến thức nền về giáo dục và đào tạo còn hạn chế. Có thể họ cảm thụ nghệ thuật tốt, sáng tác giỏi nhưng truyền đạt và giáo dục thẩm mĩ lại là vấn đề khác nữa. Trong bối cảnh hiện nay khi mà nhịp sống thay đổi từng giờ, nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội nên các trào lưu nghệ thuật cũng thay đổi. Thậm chí quan điểm nghệ thuật cũng không ngừng vận động. Việc cập nhật thông tin, sàng lọc và nhận định của từng cá thể trong xã hội luôn là đòi hỏi nếu như mỗi con người không muốn tự loại mình. Thực tế cho thấy những luận điểm về nghệ thuật (qua các bài giảng) đã được đưa vào chương trình 30 - 40 năm nhưng vẫn được giảng trong thời điểm hiện nay. Qua việc nghiên cứu tư liệu và thông qua thực tiễn thì nội dung chương trình mới đặc biệt là những kiến thức có tính cập nhật đáp ứng xu thế phát triển chung là không thể thiếu trong nội dung giảng dạy trong các trường đại học.
2.2.1.4. Đội ngũ giảng viên dạy nghiệp vụ sư phạm
Trên thực tế chất lượng đội ngũ giảng viên dạy nghiệp vụ sư phạm được coi là nhân tố có vai trò chủ đạo, quyết định trực tiếp chất lượng đào tạo nói chung và đào tạo nghiệp vụ sư phạm nói riêng cho giáo viên tương lai. Ngoài công tác trọng tâm là giảng dạy, các giảng viên còn tham gia các hoạt động văn hoá nghệ thuật trong và ngoài nhà trường. Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ đội ngũ giảng viên này chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn về chuyên môn và nghiệp vụ, đội ngũ này vừa yếu, lại vừa thiếu, đặc biệt là giảng viên phương pháp giảng dạy bộ môn. Một mặt, từ trước đến nay vẫn tồn tại định kiến sai lầm rằng, những người không có khả năng làm