Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Tới Sự Phát Triển Kinh Tế

g. Chỉ tiêu về nghèo đói và bất bình đẳng

Các chỉ tiêu thường sử dụng để đánh giá nghèo đói và bất bình đẳng về kinh tế gồm: tỷ lệ hộ nghèo trong xã hội có sự phân chia theo vùng, giới tính và theo các tiêu chuẩn quy định hiện hành quốc tế hoặc theo quốc gia; chỉ tiêu hệ số giãn cách thu nhập xác định thu nhập giữa các bộ phận dân cư giàu nghèo trong xã hội.

1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế

1.1.2.1. Vị trí địa lí

Vị trí địa lý bao gồm vị trí tự nhiên, vị trí kinh tế, giao thông, chính trị. Những nhân tố này ngày càng có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, tạo thuận lợi hay khó khăn trong thúc đẩy quá trình xây dựng, phát triển nền kinh tế mở, tăng cường mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, hội nhập vào đời sống KT - XH của khu vực và thế giới. Trong xu thế hội nhập của nền kinh tế thế giới, vị trí địa lý là nguồn lực góp phần định hướng có lợi nhất trong phân công lao động quốc tế.

Đối với quy mô lãnh thổ nhỏ như cấp huyện, yếu tố địa lý cũng tạo nên mối liên kết, hợp tác cùng phát triển giữa các địa phương trong một tỉnh, thành phố và thực hiện phân công lao động hợp lý giữa các địa phương.

1.1.2.2. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên

Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên là đối tượng lao động của con người và là nguồn vật chất vừa phục vụ trực tiếp cho cuộc sống vừa phục vụ cho phát triển kinh tế. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên là nền tảng để phát triển sản xuất và phát triển kinh tế. Những đặc trưng về tài nguyên thiên nhiên là sự phân bố tài nguyên, quy mô, chất lượng tài nguyên sẽ quy định quy mô, phân bố và cơ cấu các ngành sản xuất [23].

* Theo công dụng có thể chia nguồn tài nguyên thiên nhiên thành các loại sau:

+ Nguồn năng lượng

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 106 trang tài liệu này.

+ Các loại khoáng sản

+ Nguồn tài nguyên rừng

Phát triển kinh tế huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh - 4

+ Nguồn đất đai

+ Nguồn nước

+ Biển và thuỷ sản

+ Khí hậu

* Theo khả năng tái sinh, bao gồm:

+ Tài nguyên có khả năng tái sinh thông qua hoạt động của con người: Nguồn tài nguyên rừng và các loài động thực vật.

+ Tài nguyên có khả năng tái sinh vô tận trong thiên nhiên: Nguồn năng lượng mặt trời, thuỷ triều, sức gió, thuỷ năng sông ngòi và các nguồn nước, không khí.

+ Tài nguyên không có khả năng tái sinh bao gồm những tài nguyên có qui mô không đổi như đất đai và những tài nguyên khi sử dụng hết dần như các loại khoáng sản, dầu khí.

Nguồn lực tài nguyên thiên nhiên được coi là một nguồn lực rất quan trọng trong phát triển kinh tế. Nó được xem là món quà của thiên nhiên ban tặng cho các quốc gia. Những quốc gia giàu có về tài nguyên thiên nhiên sẽ có những điều kiện đặc biệt thuận lợi trong quá trình phát triển kinh tế. Tuy nhiên, trên thế giới cũng đã có những quốc gia nghèo tài nguyên khoáng sản (Nhật Bản, Singapo,..) nhưng họ biết phát huy tốt các nguồn lực khác, nhất là nguồn lực con người thì vẫn đạt tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế nhanh chóng.

Số lượng và chất lượng của tài nguyên thiên nhiên của một quốc gia không phải hoàn toàn cố định. Nếu có sự đầu tư thoả đáng cho việc điều tra, nghiên cứu và phát triển thì mỗi quốc gia có thể phát hiện được thêm những nguồn tài nguyên mới, mở rộng được các nguồn tài nguyên đã có trong phạm vi biên giới quốc gia, nhằm nâng cao tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế [9], [16], [22].

1.1.2.3. Điều kiện kinh tế - xã hội

a. Dân cư và nguồn lao động

Con người là chủ thể tiến hành các hoạt động sản xuất, các hoạt động xã hội, cải tạo và sử dụng tự nhiên. Số lượng và chất lượng dân cư, sự phân bố dân cư… là nhân tố quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế.

Nguồn lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật có khả năng tham gia lao động, có nguyện vọng tham gia lao động và những người ngoài độ tuổi lao động đang tham gia làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân. Nguồn lao động không chỉ tạo ra của cải vật chất nuôi sống nhân loại mà

còn sáng tạo ra công nghệ, thiết bị và sử dụng chúng vào quá trình sản xuất. Mặc khác con người cũng chính là thị trường tiêu thụ các sản phẩm và dịch vụ xã hội. Dân số càng đông, mức sống và nhu cầu càng cao, càng có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của các ngành kinh tế.

Sự phân bố dân cư ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất. Việc khai thác tài nguyên thiên nhiên thường tập trung ở những nơi có dân số đông, nguồn lao động dồi dào trước rồi mới lan toả ra những vùng xung quanh. Việc mở rộng phạm vi khai thác tài nguyên sẽ dẫn đến sự di chuyển của một bộ phận dân cư để mở rộng phạm vi hoạt động sản xuất đồng thời mở rộng thị trưởng tiêu thụ sản phẩm, qua đó thúc đẩy sản xuất ở những vùng sâu, vùng xa kém phát triển, giảm sự chênh lệch vùng. [9], [23].

b. Khoa học và công nghệ

Sự phát triển của khoa học và công nghệ đã mở ra khả năng rộng lớn trong việc khám phá, khai thác và sử dụng nguồn lực tài nguyên thiên nhiên. Những phát triển mới về năng lượng nguyên tử, mặt trời, địa nhiệt,... đã cho con người” chìa khoá” để giải quyết tình trạng cạn kiệt tài nguyên hiện nay. Những nghiên cứu mới về sinh vật biển, công nghệ sinh học,... không chỉ có tác dụng làm tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, mà còn cải tạo môi trường sinh thái, kéo theo tuổi thọ con người. Chính khoa học và công nghệ đã làm biến đổi chất lượng lao động theo hướng chuyển từ lao động thủ công, cơ bắp sang lao động sử dụng, máy móc, lao động trí tuệ; làm biến đổi cơ cấu nguồn lực lao động theo hướng giảm dần tỷ trọng lao động trong nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động trong công nghiệp, dịch vụ, từ đó làm tăng năng suất lao động. Khoa học và công nghệ còn làm cho việc huy động, tập trung và di chuyển vốn diễn ra một cách nhanh chóng, an toàn, thuận tiện và chính xác. Do đó làm cho hiệu quả sử dụng vốn tăng lên.

Với tác động trên, khoa học và công nghệ đã mở ra khả năng chuyển chiến lược phát triển kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu khi các nguồn tài nguyên đang dần bị cạn kiệt.

c. Nguồn vốn

Nguồn vốn là yếu tố đầu vào cần thiết cho một quá trình sản xuất và là kết quả của quá trình sản xuất trước đó. Để đảm bảo cho quá trình phát triển ổn định nền kinh

tế phải đầu tư kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật, máy móc, trang thiết bị, công nghệ, mua các sáng chế, đào tạo nguồn nhân lực và các dịch vụ khác. Vì thế, việc gia tăng nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả góp phần đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tích luỹ nội bộ của nền kinh tế.

Theo mục đích sử dụng của vốn không chỉ có sản xuất trực tiếp phục vụ cho việc sản xuất ra các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, mà còn bao gồm khối lượng đáng kể và phong phú các hệ thống kết cấu hạ tầng, các công trình công cộng khác phục vụ cho các nhu cầu kinh tế- xã hội của đất nước.

Theo hình thức tồn tại cuả vốn, không chỉ có các loại vốn tồn tại dưới dạng vật thể (máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, công trình kiến trúc,..) mà còn các loại vốn phi vật thể. Đó là kết quả của các loại hoạt động đầu tư cần thiết cho hoạt động của nền kinh tế, những sản phẩm của nó không tồn tại dưới dạng vật thể, mà tồn tại dưới dạng các phát minh, sáng chế, các giải pháp hữu ích hay đơn thuần chỉ là những khoản đầu tư để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Ngoài ra vốn còn tồn tại dưới dạng các tài sản chính (tiền, các loại cổ phiếu, trái phiếu, các loại nợ khác,...). Tiền là cá loại tài sản chính cần đảm bảo cho các hoạt động kinh tế diễn ra một cách bình thường, liên tục. Còn các loại cổ phiếu, trái phiếu, các loại công nợ khác là phương thức để chuyển tiết kiệm thành đầu tư.

Đối với các nước đang phát triển hiện nay thì nguồn vốn để đầu tư phát triển sản xuất đang là một vấn đề khó khăn, thiếu vốn cho đầu tư. Vốn đầu tư thường được huy động từ hai nguồn trong nước và ngoài nước. Trong đó nguồn vốn trong nước có ý nghĩa quyết định chính trong phát triển kinh tế. Nguồn vốn trong nước bao gồm: ngân sách của Nhà nước, vốn của các doanh nghiệp và tích luỹ của người dân. Bên cạnh nguồn vốn trong nước, nguồn vốn từ nước ngoài được sử dụng để đầu tư cho phát triển, tạo điều kiện để khai thác hiệu quả tiềm năng của đất nước, góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế trong nước. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài có vai trò rất quan trọng, đặc biệt đối với các nước đang phát triển khi bước vào thời kì CNH, vì nó tạo cơ hội mở rộng sản xuất theo chiều sâu, giảm khoảng cách tụt hậu về công nghệ so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Nguồn vốn ngoài nước bao gồm: viện trợ phát triển chính thức (ODA), viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (NGO), đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) và vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài [23].

d. Thị trường

Thị trường ra đời và phát triển gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Thị trường là sự kết hợp giữa cung và cầu trong đó những người mua và những người bán bình đẳng cùng cạnh tranh. Số lượng người mua, người bán nhiều hay ít phản ánh quy mô của thị trường lớn hay nhỏ. Việc xác định nên mua hay nên bán hàng hoá và dịch vụ với khối lượng và giá cả bao nhiêu do cung cầu quyết định. Từ đó ta thấy thị trường còn là nơi thực hiện kết hợp chặt chẽ giữa hai khâu sản xuất và tiêu dùng hàng, là yếu tố đảm bảo khâu tiêu dùng, xuất nhập, giá cả và tạo ra nhu cầu mới, giúp cho quá trình tái sản xuất diễn ra không ngừng. Thị trường là yếu tố hướng dẫn và điều tiết sản xuất cho các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường luôn có sự thay đổi do thị hiếu của người tiêu dùng, do đó biến đổi nhiệm vụ sản xuất để thích ứng tiêu dùng đã thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế.

đ. Đường lối, chính sách phát triển kinh tế

Đường lối chính sách là yếu tố mang tính quyết định đến sự thành công hay không của chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế của các nước trên thế giới. Bởi nó có khả năng cân đối ngân sách, kiềm chế lạm phát và có tích luỹ nội bộ kinh tế, từng bước tăng tỉ lệ đầu tư cho phát triển. Trên thế giới ở mỗi quốc gia, mỗi thời điểm đều có đường lối chính phát triển KT­XH riêng, không giống nhau do hoàn cảnh lịch sử, kinh tế xã hội khác nhau.

Tăng trưởng và phát triển kinh tế đòi hỏi phải có một thể chế chính trị xã hội ổn định. Sự ổn định đó được thể hiện bằng đường lối phát triển kinh tế, xã hội đúng đắn, phù hợp với các quy luật khách quan, có khả năng thu hút mọi nguồn lực trong và ngoài nước. Ngược lại, sự khủng hoảng về chính trị tất yếu dẫn đến tình trạng suy thoái kinh tế [3], [20], [22].

e. Cơ sở hạ tầng, cở sở vật chất kỹ thuật

Cơ sở hạ tầng có vai trò to lớn đối với phát triển KT - XH, tạo động lực cho sự phát triển. Hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển đồng bộ, hiện đại sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, năng cao năng suất, hiệu quả của nền kinh tế và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội. Ngược lại, một hệ thống kết cấu hạ tầng kém phát triển là một trở

lực lớn đối với sự phát triển. Ở nhiều nước đang phát triển hiện nay, kết cấu hạ tầng thiếu và yếu đã gây ứ đọng trong luân chuyển các nguồn lực, khó hấp thụ vốn đầu tư, gây ra những “ nút cổ chai kết cấu hạ tầng” ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế. Ngân hàng Thế giới (2005) trong một nghiên cứu về 60.000 người nghèo trên thế giới cũng chỉ ra rằng, kết cấu hạ tầng yếu kém dẫn đến chất lượng cuộc sống thấp kể cả khi thu nhập có tăng.

Thực tế trên thế giới hiện nay, những quốc gia phát triển cũng là những nước có hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển đồng bộ và hiện đại. Trong khi đó, hầu hết các quốc gia đang phát triển có hệ thống kết cấu hạ tầng kém phát triển. Chính vì vậy, việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng sẽ là một trong những điều kiện vật chất quan trọng cho sự phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội.

1.1.3. Các tiêu chí đánh giá phát triển kinh tế cho cấp huyện

- Giá trị sản xuất (GTSX): là chỉ tiêu biểu thị toàn bộ giá trị của sản phẩm vật chất và dịch vụ (do sản xuất) của tất cả các ngành kinh tế được tao nên trên phạm vi lãnh thổ trong một thời kì nhất định (thường là một năm). Giá trị sản xuất kinh tế bao gồm giá trị của sản xuất theo các nhóm ngành nông - lâm ­ thuỷ sản, công nghiệp - xây dựng, dịch vụ; giá trị sản xuất theo các thành phần kinh tế… Giá trị sản xuất theo các nhóm ngành kinh tế là một trong các chỉ tiêu để đánh giá sự phát triển của một nền kinh tế.

- Giá trị sản xuất công nghiệp: Là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành công nghiệp tạo ra dưới dạng sản phẩm vật chất và dịch vụ trong thời gian nhất định. Giá trị sản xuất công nghiệp bao gồm giá trị của nguyên vật liệu, năng lượng, phụ tùng thay thế, chi phí dịch vụ sản xuất, khấu hao tài sản cố định, chi phí lao động, thuế sản xuất và giá trị thặng dư tạo ra trong cấu thành giá trị sản phẩm công nghiệp.

- Giá trị sản xuất nông nghiệp: Là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh ngành nông nghiệp dưới dạng sản phẩm vật chất và dịch vụ trong một thời gian nhất định. Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp bao gồm kết quả hoạt động của các ngành trồng trọt, chăn nuôi, các hoạt động dịch vụ sản xuất nông nghiệp.

- Giá trị sản xuất thuỷ sản: Là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh toàn bộ kết quả sản xuất kinh doanh mà ngành thuỷ sản tạo ra trong một thời gian nhất định. Các hoạt động thuộc ngành thuỷ sản bao gồm nuôi trồng và đánh bắt thuỷ hải sản như cá, tôm,

baba, ếch, lươn, trai lấy ngọc, rong, rau câu. Ngoài ra doanh thu bán các sản phẩm về đánh bắt và dịch vụ có liên quan, giá trị công việc ươm và nhân giống thuỷ sản cũng đựơc tính vào giá trị sản xuất ngành thuỷ sản.

- Giá trị sản xuất/người.

- GTSX chia cho dân số tương ứng theo lãnh thổ và mốc thời gian.

- Cơ cấu giá trị sản xuất theo các nhóm ngành và nội bộ ngành [19], [23].

1.2. Cơ sở thực tiễn

1.2.1. Khái quát tình hình phát triển kinh tế vùng Đồng bằng sông Hồng

Vùng Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) là vùng có diện tích nhỏ nhất nước ta (gồm cả tỉnh Quảng Ninh) với 21.060,0 km2 (chiếm 6,3% diện tích cả nước), dân số là 20.705,2 người (năm 2014), chiếm 22,8% dân số cả nước. Mật độ dân số: 983,0 người/km2. Ngoài phần đất liền, đồng bằng sông Hồng còn có vùng tiếp giáp thuộc vịnh Bắc Bộ và hệ thống các đảo ven bờ có vai trò quan trọng về kinh tế - xã hội và an ninh - quốc phòng.

Vùng Đồng bằng sông Hồng (tính đến 2014) có 2 thành phố trực thuộc Trung ương là thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng và 15 thành phố trực thuộc tỉnh là: Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Vĩnh Yên, Thái Bình, Hà Nam, Phủ Lý, Nam Định, Ninh Bình, Tam Điệp, 8 thị xã và 101 huyện.

Địa hình của ĐBSH thấp dần từ tây bắc xuống đông nam, giảm dần đến độ cao mặt biển, ra ngoài địa hình của vùng bị cắt xẻ bởi sông, đê, tạo nên các vùng đất cao thấp khác nhau. Đất đai màu mỡ, chủ yếu được phù sa của hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình bồi đắp. Khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, có sự khác biệt giữa mùa khô (mùa lạnh) và mùa mưa (mùa nóng). nguồn nước dồi dào, mạng lưới sông ngòi dày đặc, có vùng biển rộng. Đất đai, địa hình, khí hậu, nguồn nước rất thuận lợi đa dạng hoá cây trồng, phát triển nền nông nghiệp nhiệt đới.

Vùng ĐBSH là vùng khá phát triển. Về quy mô GDP, vùng đứng thứ 2/7 vùng kinh tế (chỉ sau vùng Đông Nam Bộ). Năm 2010 quy mô GDP của vùng đạt trên 514,4 nghìn tỉ đồng, vùng đóng góp 23,1% GDP cả nước. Tốc độ tăng trưởng GDP khá cao và ổn định, mức tăng luôn cao hơn mức trung bình cả nước. Giai đoạn

2001 - 2005 đạt 10,9% (cả nước 7,5%). Giai đoạn 2006 – 2010, tốc độ tăng trưởng đạt 11,9%/năm (cả nước 7,0%) và GDP/người đạt 27,4 triệu đồng, gấp 1,2 lần mức trung bình của cả nước.

Cơ cấu kinh tế vùng đang chuyển động mạnh sang nền kinh tế thị trường định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Năm 2005 khu vực nông ­ lâm • thủy sản chiếm 16,8% đến 2010 giảm xuống còn 12,6%. Khu vực CN - XD tương ứng là 39,3% và 43,8%, còn khu vực dịch vụ là 43,9% và 43,6%.

Ngành nông - lâm ­ thuỷ sản là lĩnh vực giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế của vùng ĐBSH trong đó nông nghiệp chiếm 87,3%, thủy sản chiếm 12,0% và lâm nghiệp chiếm 0,7% GTSX năm 2010. Cơ cấu cây trồng đa dạng, ngoài cây lúa là cây chủ đạo còn trồng nhiều loại cây công nghiệp hàng năm, cây rau đậu, hoa và cây cảnh… Trồng trọt có tỉ trọng giảm trong GTSX nông nghiệp còn 55,5%, chăn nuôi tăng lên 41,2%, dịch vụ chiếm tỉ lệ nhỏ 3,3%.

Ngành công nghiệp có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển như vị trí địa lý, nguồn nguyên liệu phong phú, lao động dồi dào, trình độ chuyên môn cao, cơ sở hạ tầng tốt… Giá trị sản xuất công nghiệp của vùng ĐBSH tăng liên tục trong giai đoạn 2005 - 2010. Tính theo giá thực tế, giá trị sản xuất công nghiệp năm 2005 là 193.143,4 tỉ đồng, năm 2010 đạt 712.644,5 tỉ đồng tăng gấp gần 3,7 lần, chiếm 19,4% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước.

Vùng đồng bằng sông Hồng có các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp đa dạng, trong đó phải kể đến các khu công nghiệp, hiện nay có 90 khu công nghiệp tập trung trên địa bàn. Các khu công nghiệp thu hút được nhiều vốn đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng nhiều nhất trong các lĩnh vực kinh tế. Ngoài ra còn tập trung nhiều làng nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống.

Ngành dịch vụ có vai trò quan trọng trong nền kinh tế của vùng, chiếm tới 43,6% trong GDP toàn vùng. Hệ thống giao thông vận tải khá hoàn chỉnh có ý nghĩa lớn giúp trao đổi hàng hoá giữa các địa phương, các nước trên thế giới một cách dễ dàng. Bưu chính viễn thông tương đối phát triển nhằm đáp ứng ngày càng lớn của sự phát triển của KT­XH. Thương mại ngày càng phát triển bởi nhu cầu ngày càng cao. Kim ngạch xuất, nhập khẩu mặc dù còn âm nhưng đã có chuyển biến rõ nét. Du lịch phát triển nhanh, năm 2010 vùng có lượng khách du lịch quốc tế

Xem tất cả 106 trang.

Ngày đăng: 24/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí