Phát triển khách du lịch nội địa tại tỉnh Bình Thuận thực trạng và giải pháp - 13


17. Luận văn Kiều Phương, đề tài: Giải pháp nâng cao sự hài lòng của khách hàng sử dụng dịch vụ du lịch của Tổng Công ty Du lịch Saigon (Saigontourist) đến năm 2020

18. TS. Nguyễn Quyết Thắng, đề tài nghiên cứu cấp trường: “ Giải pháp phát triển du lịch tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2016-2025”

19. Tác giả Nguyễn Thị Bé Trúc- 2014,Lưu Thanh Đức Hải-2011, Nguyễn Hồng Quang -2011, Trần Thị Ái Cẩm- 2011

PHỤ LỤC 1

Nông Lâm Thuỷ sản Sản xuất vụ đông xuân

Thời tiết sản xuất vụ đông xuân 2014-2015 tương đối thuận lợi. Do tập trung triển khai chặt chẽ các biện pháp chỉ đạo về thời vụ, điều tiết nước, phòng chống dịch bệnh hiệu quả nên sản xuất khá ổn định. Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm đạt 46.578 ha, đạt 100,08% kế hoạch vụ.

- Cây lúa: Diện tích gieo trồng đạt 34.423 ha (đạt 107,3% kế hoạch vụ; giảm 4,12% so với vụ cùng kỳ năm trước). Năng suất lúa bình quân đạt 63,2 tạ/ha (tăng 1,63 tạ/ha so với vụ cùng kỳ năm trước). Sản lượng lúa đạt 217.561 tấn.

Thực hiện Chương trình xã hội hoá giống lúa và mô hình cánh đồng lúa năng suất cao tiếp tục được tiếp tục triển khai. Trong vụ, đã thực hiện được 446 ha giống lúa xác nhận (gồm Hàm Thuận Bắc 35 ha, Bắc Bình 286 ha, Tuy Phong 25 ha, Đức Linh 20 ha, Tánh Linh 80 ha). Có 1.270 ha diện tích thực hiện theo chương trình liên kết sản xuất trên địa bàn tỉnh trong vụ đông xuân 2014 - 2015.

- Cây bắp: Diện tích gieo trồng đạt 4.824 ha. Nhờ chủ động nguồn nước tưới từ các trạm bơm, các công trình thuỷ lợi nên cây bắp lai một số vùng phát triển tốt như: Đức Linh (95 tạ/ha), Tánh Linh (83,3 tạ/ha); tuy vậy có một số huyện do nắng nóng kéo dài, năng suất đạt thấp (Phan Thiết, Tuy Phong, Bắc Bình). Năng suất bình quân đạt 77,22 tạ/ha (giảm 0,34 tạ/ha so vụ cùng kỳ với năm trước); sản lượng bắp đạt 37.247 tấn. Các loại giống bắp lai được đưa vào sản xuất trong vụ này là : SSC586, C919, CP33, NK66, DK8868 nhìn chung cho năng suất khá cao (7,5 – 8 tấn/ha).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 122 trang tài liệu này.

Sản lượng lương thực vụ đông xuân đạt 254.808 tấn, tăng 0,94% so với đông xuân năm trước

Sản xuất vụ hè thu

Phát triển khách du lịch nội địa tại tỉnh Bình Thuận thực trạng và giải pháp - 13

Sản xuất vụ hè thu năm 2015 tình hình thời tiết không thuận lợi, mùa mưa đến trễ, nắng hạn kéo dài, lượng mưa đầu mùa thấp, phân bổ không đều trong phạm vi toàn tỉnh, trữ lượng nước các hệ thống công trình thuỷ lợi tỷ lệ dung tích xuống thấp nên tình hình thiếu hụt nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp xảy ra trên diện

rộng. Diện tích gieo trồng hè thu đạt 68.345 ha, đạt 105,9% kế hoạch vụ (tương đương so với vụ cùng kỳ năm trước); trong đó:

+ Cây lương thực: Diện tích gieo trồng đạt 50.942 ha, đạt 102,2% kế hoạch vụ (bằng 95,79% so với cùng kỳ năm trước). Trong đó, cây lúa đạt 40.552 ha, đạt 102,4% kế hoạch vụ (bằng 96,04% so với vụ cùng kỳ); cây bắp đạt 10.390 ha, đạt 103,8% kế hoạch vụ (bằng 94,84% so với vụ cùng kỳ).

Diện tích lúa giảm do nắng hạn kéo dài, lượng nước các công trình thuỷ lợi không đủ phục vụ. Các địa bàn có diện tích lúa giảm so với cùng kỳ là: Hàm Thuận Nam, Đức Linh, Phan Thiết, La Gi (huyện Tuy Phong không gieo trồng lúa vụ hè thu 2015); các địa bàn có diện tích lúa tăng là: Hàm Thuận Bắc, Bắc Bình, Tánh Linh.

Các loại giống lúa được sử dụng sản xuất trong vụ Hè Thu này là: ML48, ML214, ML202, TH6, IR59606, IR59656, IR56279, IR62032, OM4900, OM2514,

OM2717, OM4218, OM1490, OM 3536, OM 5936… và các giống lúa đã được Bộ Nông nghiệp – PTNT công nhận, phù hợp với điều kiện sản xuất của tỉnh.

Trong vụ hè thu, đã thực hiện Chương trình xã hội hóa giống lúa tại các huyện trọng điểm lúa xác nhận và triển khai sản xuất lúa theo mô hình “Cánh đồng chất lượng cao” tại các huyện Đức Linh, Tánh Linh, Bắc Bình, Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam.

Năng suất lúa vụ hè thu năm 2015 đạt 56,08 tạ/ ha (tăng 0,64 tạ/ha so với vụ hè thu năm trước); năng suất bắp đạt 58,66 tạ/ha (tăng 0,73 tạ/ha so với năm trước); sản lượng lương thực vụ hè thu 2015 đạt 288.379 tấn (bằng 96,91% so cùng kỳ năm trước).

+ Cây chất bột: Diện tích gieo trồng đạt 432 ha (tăng 18% so với cùng kỳ năm trước), trong đó chủ yếu là cây khoai lang (319 ha).

+ Cây công nghiệp ngắn ngày: Diện tích gieo trồng đạt 8.762 ha (tăng 20,42% so với vụ cùng kỳ), trong đó cây mè 6.846 ha (tăng 28,57%), cây đậu phụng 1.914 ha (giảm 1,81% so với cùng kỳ).

+ Cây rau, đậu: Diện tích gieo trồng đạt 7.973 ha (so với vụ cùng kỳ tăng 109,7%). Trong đó, rau các loại diện tích 3.116 ha (tăng 113,4%); đậu các loại diện tích 4.857 ha (tăng 107,4%).

Các nhóm cây chất bột, cây công nghiệp, rau đậu các loại diện tích tăng so với cùng kỳ năm trước do thời tiết cuối tháng 6 và tháng 7 lượng mưa trải đều trên diện rộng ở tất các huyện trong tỉnh nên các địa phương khẩn trương gieo trồng, các công trình thủy lợi lượng nước dự trữ phục vụ tưới tiêu cho cây trồng được đảm bảo đủ nguồn nguồn nước tưới và độ ẩm của đất.

Sản xuất vụ Mùa: Dự ước diện tích gieo trồng cây ngắn ngày đạt 87.858 ha, giảm 5,3% so với vụ mùa năm trước; trong đó lúa 40.111 ha (giảm 3,5%), bắp

4.357 ha (giảm 10,1% so với vụ mùa năm trước). Sản lượng lương thực đạt 239.316 tấn.

Tính chung 3 vụ, diện tích gieo trồng cây hàng năm ước đạt 202.778 ha, đạt 102,3% KH, giảm 2,4% so với năm trước; trong đó nhóm cây lương thực đạt 134.653,7 ha, đạt 102,4% KH, giảm 3,5% so với năm trước (trong đó lúa 115.008,7 ha, đạt 103,1% KH, giảm 3,9% so với năm trước); sản lượng lương thực cả năm ước đạt 782.503 tấn, đạt 104,3% KH, giảm 1,7% so với năm trước.

Phát triển một số cây lâu năm:

- Thanh long: Diện tích đến cuối năm 2015 ước đạt 26.026 ha, tăng 6,2% so với năm trước. Do giá tiêu thụ thanh long những năm trước đây ổn định với mức cao nên đầu tư trồng thanh long tiếp tục phát triển và mở rộng; diện tích trồng mới trong năm ước đạt 2.662 ha (tăng gấp 4,3 lần so với kế hoạch đề ra); sản lượng ước đạt 469,5 ngàn tấn (tăng 4,5% so với năm trước)

- Cao su: Diện tích đến cuối năm 2015 ước đạt 42.784 ha, giảm 0,3% so với năm trước. Trong năm 2015 giá mủ su cao liên tục giảm xuống thấp, vì vậy người dân ở các địa phương trong tỉnh không còn mạnh dạn phát triển thêm diện tích trồng mới như những năm trước (trồng mới trong năm chỉ đạt 52 ha; năm trước trồng mới 2.797 ha). Tuy nhiên tình trạng chặt bỏ diện tích trên địa bàn tỉnh gần như không xảy ra, chỉ có một số diện tích già cỗi năng suất thấp được chặt bỏ để thay diện tích mới. Sản lượng ước đạt 50.941 tấn (tăng 9,6% so với năm trước)

- Cây điều: Diện tích đến cuối năm 2015 ước đạt 16.799 ha, giảm 6,1% so với năm trước. Nguyên nhân giảm do phần lớn diện tích điều trên địa bàn tỉnh đã già cỗi, diện tích điều cao sản chưa được phát triển nhiều, đa số nông dân trồng điều chỉ áp dụng biện pháp thâm canh như: bón phân, phun thuốc, làm cỏ, tỉa cành,

nhưng chủ yếu theo kinh nghiệm nên hiệu quả không cao. Cây điều lại được trồng trên những vùng đất bạc màu, vùng khô hạn nên gặp thời tiết sâu bệnh dễ phát triển làm giảm năng suất làm diện tích điều toàn tỉnh ngày càng bi thu hẹp thế chỗ cho cây khác có giá trị cao hơn. Sản lượng cả năm ước đạt 10.691 tấn (giảm 4,2% so với năm trước)

Chăn nuôi

Trong năm, tình hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh phát triển ổn định, xu hướng chăn nuôi được chuyển dịch từ chăn nuôi nhỏ lẻ sang chăn nuôi với quy mô gia trại, trang trại. Dự ước đến cuối năm 2015:

- Đàn trâu, bò: đàn trâu có 8.991 con (tương đương như năm trước); đàn bò có 163.492 con (giảm 0,5%). Số lượng đàn trâu, bò trên địa bàn tỉnh giảm chủ yếu là do diện tích đồng cỏ nuôi thả tự nhiên ngày càng thu hẹp bởi quá trình đô thị hóa và việc phát triển diện tích cây lâu năm.

- Đàn heo: có 279.244 con (tăng 5,1% so với cùng kỳ). Đàn heo đang có xu hướng phát triển tốt, do giá bán thịt hơi ổn định ở mức cao (từ 46 – 50 ngàn đồng/kg), chi phí thức ăn, con giống ổn định, tình hình dịch bệnh luôn được kiểm soát tốt, lợi nhuận từ chăn nuôi heo tăng khá nên người chăn nuôi tiếp tục mở rộng phát triển tổng đàn.

- Đàn gia cầm: có 3.195 ngàn con (giảm 0,6% so với cùng kỳ năm trước). Nguyên nhân do tình hình thời tiết gần đây năng nóng dể phát sinh các loại dịch bệnh, do đó người chăn nuôi gia cầm thường không tái đàn một cách ồ ạt, chỉ phát triển cầm chừng.

Trong năm đã thực hiện tiêm phòng 11,5 triệu liều; trong đó: đàn trâu, bò 230 ngàn liều; đàn lợn 786 ngàn liều; đàn gia cầm 10,4 triệu liều. Kiểm dịch động vật: đàn heo 895 ngàn con; đàn trâu, bò 2.660 con; đàn gia cầm 2,1 triệu con; Kiểm soát giết mổ: 649 con trâu, bò; 26.128 con heo; 144.423 con gia cầm Riêng thịt heo trong tháng 12 không tổ chức kiểm tra, lũy kế năm 2015 là 68.514 kg.. Phúc kiểm sản phẩm động vật: thịt trâu, bò 35.689 kg; thịt gia cầm 510.240 kg; thịt heo 68.514 kg; trứng gia cầm 1,6 triệu quả.

Lâm nghiệp

Ước cả năm, trồng rừng tập trung và trồng rừng thay thế đất lâm nghiệp đạt

2.462 ha (đạt 106% KH năm), trong đó trồng rừng tập trung 2.256 ha (đạt 124% KH năm) và 206 ha rừng thay thế (đạt 41% KH năm). Trồng cây phân tán đạt 894 ngàn cây (đạt 110% KH năm). Chăm sóc rừng đạt 6.040 ha (đạt 100% KH năm). Khoanh nuôi tái sinh rừng tự nhiên 8.845 ha (đạt 114% KH năm). Giao khoán bảo vệ rừng đạt 133.791 ha (đạt 132% kế hoạch năm). Phần lớn diện tích rừng đang được các hộ dân bảo vệ tốt, không có tình trạng chặt phá cây rừng, lấn chiếm đất rừng làm rẫy xảy ra trong khu vực nhận khoán. Khai thác gỗ từ rừng trồng tập trung đạt 41.674

m3 (tăng gấp 2,1 lần so với năm trước).

Công tác phòng chống cháy rừng (PCCR) được duy trì thường xuyên. Toàn tỉnh đã thành lập 9 ban chỉ huy PCCR huyện, 69 ban chỉ huy PCCR xã, 360 tổ, đội PCCR ở các địa phương; xây dựng 394,46 km đường băng cản lửa, 5 chòi canh lửa; trang bị 293 máy móc, 2.186 dụng cụ thủ công, sẵn sàng ứng phó khi có tình huấn cháy khẩn cấp xảy ra. Ngoài ra còn yêu cầu các hộ dân sống trong khu vực có rừng ký cam kết bảo vệ rừng (toàn tỉnh có 137 thôn có hương ước bảo vệ rừng).

Trong năm đã xảy ra 33 vụ cháy rừng, tổng diện tích bị thiệt hại là 55,5 ha, hầu hết các vụ cháy chỉ là cháy thực bì, trảng cỏ không gây thiệt hại gì đến tài nghiên rừng. Nguyên nhân các vụ cháy trên chủ yếu do việc sử dụng lửa bất cẩn của người dân khi vào rừng canh tác, săn bắt động vật hoang dã, đốt than và các hoạt động dã ngoại...

Trong 11 tháng đã phát hiện 796 vụ vi phạm lâm luật (tăng 18 vụ so với năm trước), trong đó; phá rừng trái phép 13 vụ, khai thác rừng 117 vụ, phòng cháy chữa cháy rừng 01 vụ, quản lý động vật hoang dã 1 vụ, mua bán vận chuyển lâm sản trái phép 334 vụ, chế biến gỗ và lâm sản khác 24 vụ, vi phạm khác 306 vụ. Đã xử lý 795 vụ (782 vụ vi phạm hành chính và 13 vụ vi phạm hình sự), tịch thu 525 m3 gỗ tròn, 485 m3 gỗ xẻ; tổng số tiền phạt, bán tang vật nộp vào ngân sách trong là 6,366 tỷ đồng.

Thủy sản

Đầu tư đóng mới tàu cá tiếp tục phát triển theo hướng nâng cao công suất, gắn với việc giảm tàu thuyền công suất nhỏ. Năng lực tàu cá tăng nhanh, nhất là tàu trên 90 cv cho thấy xu hướng chuyển đổi cơ cấu thuyền nghề vươn ra khai thác

vùng khơi tiếp tục được đẩy mạnh. Dự ước đến cuối năm toàn tỉnh có 7.326 chiếc/871.794 cv, bình quân 119cv/chiếc (năm trước 111,3cv/chiếc); trong đó tàu trên 90 cv có 2.550 chiếc/773.661 cv.

Ước cả năm, sản lượng khai thác thuỷ sản đạt 198.312 tấn (trong đó khai thác hải sản đạt 198.218 tấn, tăng 0,19%, so với năm trước; trong đó: Cá khai thác 119.748 tấn, tăng 4,73%; tôm 5.098 tấn, giảm 4,13%). Công tác đảm bảo an toàn cho người và tàu cá được tiếp tục chú trọng; Dịch vụ hậu cần nghề cá phát triển; Tiếp tục củng cố phát triển mô hình Tổ đoàn kết sản xuất trên biển nhằm phát huy tinh thần đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau nâng cao hiệu quả sản xuất, đồng thời góp phần bảo vệ chủ quyền an ninh biển đảo

Nuôi trồng thuỷ sản: Năm nay thời tiết diễn biến khá phức tạp, nắng nóng kéo dài, môi trường vùng nuôi bị ô nhiễm đã làm ảnh hưởng đến tôm phát triển, dịch bệnh đỏ thân, bệnh hoại tử dưới vỏ xảy ra rải rác ở các khu vực nuôi. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản ước đến cuối năm đạt 2.369 ha (giảm 14,9% so với năm trước).

Nuôi thuỷ sản nước ngọt với quy mô nhỏ, hộ gia đình là chủ yếu (nuôi các loại cá truyền thống như: cá trắm, chép, diêu hồng, cá chim, cá lóc, cá tra, cá trê….); hình thức nuôi thường là quảng canh, quảng canh cải tiến, nuôi cá kết hợp với trồng sen, nuôi vịt… nuôi thâm canh, bán thâm canh. Mô hình nuôi cá nước ngọt trong ao đất thời gian gần đây có xu hướng chững lại do thị trường tiêu thụ bấp bênh, sức cạnh tranh cao thấp, một số khu vực nuôi chưa chủ động được nguồn nước.

Nuôi cá lồng bè (chủ yếu ở Đức Linh, Tánh Linh), đối tượng nuôi chủ yếu là cá bống tượng nhưng nguồn nước nuôi cũng bị ô nhiễm từ việc khai thác cát trên sông, nguồn nước thải các cơ sở chế biến mủ cao su… gây khó khăn cho các hộ nuôi.

Nuôi hải sản trên biển tiếp tục duy trì tại các huyện Phú Quý, Tuy Phong, Đức Linh và Tánh Linh, tập trung một số đối tượng có giá trị kinh tế cao như: cá mú cọp, cá bớp, cá giò. Hiện nay nuôi cá lồng, bè đang gặp nhiều khó khăn do giá tiêu thụ thấp nên, dự ước đến cuối năm còn 980 lồng, bè (giảm 15,3% so với năm trước).


trước).

Sản lượng nuôi trồng thuỷ sản cả năm ước đạt 13.473 tấn (giảm 1,1% so năm


Sản xuất giống thuỷ sản: Ước cả năm các cơ sở kiểm dịch và xuất bán ra thị

trường 21,267 tỷ post (giảm 22,4% so với năm trước). Số lượng tôm giống giảm là do trong những tháng đầu năm thời tiết nắng nóng gây bất lợi cho sản xuất và nuôi trồng nên nhu cầu sử dụng tôm giống giảm theo.

Công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản luôn được tăng cường. Từ đầu năm đến nay đã phát hiện 819 vụ vi phạm, trong đó có 549 vụ vi phạm khai thác các loại hải sản không đúng theo quy định. Đã xử lý và thu nộp ngân sách là 4.667 triệu đồng. Các địa phương có số vụ vi phạm nhiều như: Phan Thiết 273 vụ; La Gi 266 vụ; Tuy Phong 222 vụ; Phú Quý 21 vụ, còn lại một số ít vụ thuộc các địa phương như Hàm Tân, Hàm Thuận Nam, Bắc Bình và một số các đối tượng khác ngoài tỉnh vi phạm tại địa bàn tỉnh.

Công nghiệp; Đầu tư phát triển Công nghiệp

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp năm 2015 so với năm trước ước đạt 108,06% (tăng 8,06% so với năm trước).

Tính theo giá so sánh 2010, dự ước giá trị sản xuất công nghiệp năm 2015 đạt 22.381 tỷ đồng (tăng 25,6% so với năm trước); trong đó công nghiệp khai khoáng 1.085 tỷ đồng (tăng 26,6%); công nghiệp chế biến chế tạo 14.010 tỷ đồng (tăng 5,8%); sản xuất và phân phối điện đạt 7.166 tỷ đồng (tăng 99,1%); cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý nước thải, rác thải đạt 120 tỷ đồng (tăng 4,7%).

Các sản phẩm sản xuất tăng so với năm trước là: khai thác cát xây dựng (tăng 1,27%), đá xây dựng (tăng 4,53%), thủy sản đông lạnh (tăng 11,23%), muối hạt (tăng 18,29%), nước mắm (tăng 2,65%), thức ăn gia súc (tăng 28,08%), nước đá (tăng 7,98%), nước khoáng (tăng 2,76%), gạch nung các loại (tăng 5,12%), hàng may mặc (tăng 35,13%), trang in (tăng 1,82%), điện sản xuất (tăng gấp 2,48 lần), sơ chế mủ cao su (tăng 2,82%). Các sản phẩm giảm là: thủy sản khô (giảm 2,16%), hạt điều nhân (giảm 13,74%), đường (giảm 5,67%)

Nhìn chung hoạt động sản xuất công nghiệp trong năm khá ổn định. Một số doanh nghiệp chế biến hải sản đã đầu tư đổi mới trang thiết bị dây chuyền sản xuất

Xem tất cả 122 trang.

Ngày đăng: 06/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí