đoạn trước cả về giá trị giao dịch, danh mục đầu tư, giá trị nắm giữ và cách thức tiến hành.
Về giá trị giao dịch, năm 2004, là năm TTCK Việt nam có dấu hiệu phục hồi, do đó, giá trị giao dịch của các CTCK tăng mạnh trong giai đoạn này, năm 2004 tăng hơn 211% so với năm 2003, năm 2005 tăng 62,98% so với năm 2004. Trong hai năm này, giá trị giao dịch tự doanh trái phiếu của các CTCK vẫn chiếm tỷ trọng cao hơn so với giao dịch tự doanh cổ phiếu và tập trung 4 CTCK thuộc NHTMQD: ARSC, VCBS, IBS và BSC; SSI, ACBS và BVSC là những công ty có giá trị giao dịch tự doanh cổ phiếu cao nhất.
Đặc biệt trong năm 2006, thị trường cổ phiếu bắt đầu sôi động vào những tháng giữa năm, do đó giá trị giao dịch của các CTCK đều tăng, tăng gần 100% so với năm 2005 và chủ yếu tập trung vào giao dịch tự doanh cổ phiếu. Các công ty có giá trị giao dịch lớn vẫn là các công ty thuộc khối NHTMQD, SSI, BVSC và ACBS. Như vậy, tính đến thời điểm cuối giai đoạn này giữa các CTCK đã có sự cách biệt rõ ràng về thế mạnh trong hoạt động của các CTCK.
Về danh mục đầu tư, các CTCK bắt đầu đa dạng danh mục đầu tư của mình tùy vào lợi thế, đặc điểm và chiến lược của công ty. Các công ty tiến hành đầu tư vào cả cổ phiếu niêm yết, trái phiếu niêm yết và chứng khoán chưa niêm yết. Tuy nhiên, danh mục đầu tư của các CTCK vẫn mang tính chất ngắn hạn, được điều chỉnh theo diễn biến thị trường, các công ty chưa có được chiến lược đầu tư dài hạn. Trong giai đoạn thị trường ổn định, các CTCK đều có tỷ trọng đầu tư trong danh mục đầu tư tương đối giống nhau đó là đầu tư chủ yếu vào trái phiếu niêm yết và chứng khoán chưa niêm yết.
Bảng 2.18: Tỷ trọng đầu tư trong hoạt động tự doanh của các CTCK
Đơn vị: %
31/12/2004 | 31/12/2006 | |||||
CP, CCQĐT niêm yết | TP niêm yết | CK chưa niêm yết | CP, CCQĐT niêm yết (*) | TP niêm yết (**) | CK chưa niêm yết | |
BSC | 0,51 | 84,77 | 14,72 | 22,76 | 77,24 | 0 |
TSC | 0,99 | 55,6 | 43,42 | 86,3 | 13,77 | 0 |
ACBS | 1,54 | 0 | 98,46 | 3,58 | 0 | 96,42 |
IBS | 0,39 | 79,52 | 20,09 | 4,74 | 39,06 | 56,2 |
ARSC | 0,41 | 88,54 | 11,06 | 3,35 | 64,26 | 32,39 |
VCBS | 0,89 | 77,02 | 22,08 | 1,37 | 26,35 | 72,28 |
MSC | N/A | N/A | N/A | 100 | 0 | 0 |
BVSC | 11,97 | 86,03 | 2 | 20,6 | 65,43 | 13,67 |
Haseco | 13,49 | 83,53 | 2,98 | 37,49 | 0 | 62,51 |
SSI | 1,3 | 71,02 | 27,69 | 25,61 | 40,66 | 33,73 |
FSC | 64,92 | 0 | 35,08 | 35,72 | 0 | 64,28 |
HSC | 23,4 | 0 | 76,6 | 100 | 0 | 0 |
EABS | 7,18 | 73,2 | 18,63 | 27,93 | 0 | 72,07 |
HBBS | - | - | - | 11,06 | 0,19 | 88,75 |
Có thể bạn quan tâm!
- Tình Hình Hoạt Động Của Các Ctck Ở Việt Nam
- Phát triển hoạt động của công ty chứng khoán ở Việt Nam - 12
- Phát triển hoạt động của công ty chứng khoán ở Việt Nam - 13
- Phát triển hoạt động của công ty chứng khoán ở Việt Nam - 15
- Phân Tích Sự Phát Triển Hoạt Động Của Các Công Ty Chứng Khoán
- Phát triển hoạt động của công ty chứng khoán ở Việt Nam - 17
Xem toàn bộ 221 trang tài liệu này.
*: cổ phiếu niêm yết trên 2 TTGDCK
**: Trái phiếu niêm yết trên TTGDCK Tp. HCM
Sang năm 2006, thị trường cổ phiếu (niêm yết và chưa niêm yết) diễn ra hết sức sôi động đặc biệt vào nửa cuối năm 2006. Do đó, kết cấu danh mục đầu tư của các CTCK cũng có sự thay đổi theo hướng giảm tỷ trọng đầu tư trái phiếu niêm yết, tăng tỷ trọng đầu tư cổ phiếu niêm yết và chứng khoán chưa niêm yết (trong đó chủ yếu là cổ phiếu chưa niêm yết). Mức tăng tỷ trọng của chứng khoán chưa niêm yết ở hầu hết các công ty đều cao hơn cổ phiếu niêm yết (bảng 2.18).
Trong bối cảnh đó hầu hết các CTCK đều thay đổi chiến lược đầu tư, duy có ACBS, ARSC và FSC không thay đổi (ACBS và FSC vẫn giữ nguyên chiến lược đầu tư là không đầu tư vào trái phiếu niêm yết; ARSC vẫn duy trì tỷ trọng đầu tư vào trái phiếu niêm yết ở tỷ lệ cao).
Việc tăng tỷ trọng đầu tư vào cổ phiếu chưa niêm yết trong năm qua của các CTCK cho thấy các CTCK đang cố gắng tìm kiếm các khoản đầu tư mang lại lợi nhuận cao cho công ty vì đầu tư vào cổ phiếu chưa niêm yết khả năng đem lại lợi nhuận cao hơn so với cổ phiếu niêm yết. Cổ phiếu chưa niêm yết không bị khống chế về biên độ giao động giá trong ngày và giá cả được xác định trên cơ sở thỏa thuận, do đó trong bối cảnh cả thị trường cổ phiếu niêm yết và chưa niêm yết diễn ra sôi động thì sức hấp dẫn của thị trường cổ phiếu chưa niêm yết lớn hơn rất nhiều so với thị trường cổ phiếu niêm yết.
Về giá trị nắm giữ, các CTCK có giá trị nắm giữ cao qua các năm chủ yếu là những công ty thuộc khối ngân hàng, SSI và BVSC. Đây cũng là những công ty có thế mạnh trong các hoạt động khác như môi giới, BLPH. Giá trị nắm giữ của ARSC năm 2006 giảm 12,89 lần so với năm 2005 là do ARSC chủ yếu đầu tư vào trái phiếu và năm 2006 là thời điểm đáo hạn của một số trái phiếu mà ARSC nắm giữ do đó giá trị nắm giữ của ARSC chỉ còn hơn 136 tỷ đồng.
Năm 2006, giá trị nắm giữ của một số CTCK cao hơn gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu như VCBS, ACBS, SSI, BVSC điều đó cho thấy, các công ty này đã sử dụng một lượng vốn khá lớn từ nguồn vay để tiến hành tự doanh. Các CTCK thuộc ngân hàng tận dụng được nguồn vốn vay ưu đãi từ ngân hàng mẹ với lãi suất thấp, các CTCK cổ phần huy động từ nhiều nguồn khác nhau với kỳ hạn khác nhau. Với giá trị nắm giữ cao như vậy nhưng các CTCK này vẫn đảm bảo tuân thủ qui định về tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu, phần vốn góp của công ty đối với các doanh nghiệp.
Bảng 2.19: Giá trị chứng khoán nắm giữ của các CTCK
Đơn vị: Triệu đồng
31/12/2004 | 31/12/2005 | 31/12/2006 | |
VCBS | 821.828 | 568.965 | 892.178 |
IBS | 393.533 | 489.790 | 863.233 |
ACBS | 98.507 | 113.227 | 916.468 |
ARSC | 1.024.762 | 1.759.567 | 136.257 |
SSI | 13.298 | 133.520 | 1.521.808 |
BVSC | 17.601 | 42.610 | 218.134 |
TSC | 35.974 | 55.045 | 146.099 |
BSC | 641.609 | -- | 47.687 |
Haseco | 74.005 | 8.002 | 62.291 |
FSC | 48.911 | 12.577 | 23.118 |
HSC | 20.055 | 159.875 | 24.126 |
EABS | 44.140 | 117.263 | |
HBBS | -- | 27.048 | |
MSC | 36.664 | 690 | 560 |
Nguồn: UBCKNN
Về hình thức tự doanh của các CTCK, hoạt động tự doanh được tiến hành thông qua mua bán hẳn trên thị trường chính thức và thị trường tự do; BLPH hoặc đấu giá trên thị trường sơ cấp; hoặc thông qua nghiệp vụ mua bán kỳ hạn (repo). Trong 3 hình thức tiến hành hoạt động tự doanh có sự phân hóa giữa các CTCK, các CTCK thuộc NHTMQD đã biết tận dụng, tranh thủ sự hỗ trợ từ ngân hàng mẹ trong việc cấp tín dụng dài hạn cho đầu tư chứng khoán nên chủ yếu tiến hành tự doanh thông qua BLPH trái phiếu Chính phủ, trái phiếu của chính ngân hàng mẹ phát hành và thực hiện kinh doanh theo hợp đồng kỳ hạn (repo). Một số CTCK khác cũng tiến hành repo nhưng chỉ repo cổ phiếu như TSC, một số khác tiến hành tự doanh qua IPO cổ phiếu của các DNNN cổ phần hóa.
Đi đầu trong việc triển khai nghiệp vụ repo là ARSC. ARSC bắt đầu áp dụng nghiệp vụ repo năm 2003 và trong các năm tiếp theo nghiệp vụ này được triển
khai tích cực với việc tham gia BLPH và đấu thầu trái phiếu Chính phủ, trái phiếu của ngân hàng mẹ.
Hoạt động BLPH: Việc ra đời Nghị định 144 thay thế Nghị định 48 cùng với Nghị định 187/2004/NĐ-CP của Thủ tướng thay thế Nghị định 64/2002/NĐ-CP về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần đã tạo điều kiện thuận lợi về mặt pháp lý cho các CTCK tiến hành hoạt động BLPH.
Vì vậy, bước sang năm 2004 các CTCK mới thực sự bắt đầu triển khai hoạt động BLPH, 8/9 công ty được cấp phép thực hiện nghiệp vụ BLPH đã tiến hành triển khai. Tuy nhiên, do hoạt động BLPH đòi hỏi mức độ chuyên môn cũng như qui định về vốn pháp định tương đối lớn nên hoạt động này chỉ tập trung vào các CTCK có lợi thế về uy tín của ngân hàng mẹ, công ty mẹ như 4 CTCK thuộc NHTMQD và BVSC thuộc tập đoàn Bảo Việt.
100% | Các CTCK khác VCBS | |||
80% | 45.01 | 48.1 | 48.22 | |
60% | ||||
40% | 30.4 | 23.48 | 26.6 | |
20% | 24.59 | 28.42 | 25.18 | |
0% | ||||
2004 | 2005 | 2006 | ||
Năm |
Dẫn đầu về thị phần BLPH trong giai đoạn này là VCBS và ARSC, 2 công ty này thường xuyên chiếm trên 50% giá trị BLPH trong tổng giá trị bảo lãnh của tất cả các CTCK.
Nguồn: Tổng hợp số liệu từ các CTCK và UBCKNN
Biểu đồ 2.4: Thị phần dịch vụ BLPH của các CTCK
Chứng khoán được các CTCK tiến hành BLPH trong giai đoạn này vẫn tập trung vào trái phiếu Chính phủ cho Kho bạc nhà nước và Quỹ hỗ trợ phát triển, trái
phiếu đô thị cho Quỹ đầu tư phát triển đô thị Tp. HCM với hình thức bảo lãnh chắc chắn, và làm ĐLPH trong việc phát hành kỳ phiếu, trái phiếu của các NHTM. Hoạt động BLPH cổ phiếu bắt đầu được thực hiện nhưng còn ở mức hạn chế.
Bảng 2.20: Giá trị chứng khoán được BLPH năm 2006
Đơn vị: Triệu đồng
Tp.CP | Tp.đô thị | Tp.Cty | C.phiếu | CK khác | Tổng | |
Giá trị bảo lãnh | 3.585.100 | 280.000 | 55.000 | 42.900 | 8.742.000 | 12.705.000 |
Tỷ trọng (%) | 28,22 | 2,2 | 0,43 | 0,34 | 68,81 | 100 |
Nguồn: Báo cáo các tháng hoạt động năm 2006 - UBCKNN
Như vậy đến năm 2006, giá trị BLPH trái phiếu Chính phủ (gồm trái phiếu Chính phủ và trái phiếu đô thị) của các CTCK vẫn chiếm 30,42% tổng giá trị BLPH, trong khi đó giá trị BLPH cổ phiếu chỉ chiếm 0,34% tổng giá trị BLPH.
Xét riêng về BLPH trái phiếu, thế mạnh trong lĩnh vực này thuộc về các CTCK thuộc NHTMQD trong đó nổi trội hơn cả là VCBS và ARSC. Hai CTCK này với sự hậu thuẫn lớn về vốn từ ngân hàng mẹ nên thường xuyên tham gia vào BLPH trái phiếu Chính phủ, trái phiếu, kỳ phiếu của chính ngân hàng mẹ và của các NHTM, tổ chức tín dụng khác phát hành. Điều này đã mang lại cho VCBS và ARSC có được vị trí đầu bảng về hoạt động BLPH, đồng thời giá trị tự doanh trái phiếu cũng như tỷ trọng đầu tư trái phiếu của VCBS và ARSC luôn đạt ở mức cao.
BLPH cổ phiếu, công ty dẫn đầu trong hoạt động BLPH cổ phiếu thuộc về BVSC. BVSC với uy tín và mối quan hệ tốt với các cơ quan có thẩm quyền quyết định DNCPH nên thường xuyên dành được các hợp đồng BLPH cho các DNCPH. Năm 2004, các CTCK chỉ thực hiện được 6 hợp đồng BLPH cổ phiếu trong đó BVSC thực hiện 1 hợp đồng cho Công ty xây lắp bưu điện Hà nội, VCBS 1 hợp đồng tăng vốn điều lệ cho Eximbank.
Đặc biệt trong năm 2005, BVSC là đơn vị đi đầu trong nghiệp vụ BLPH cổ phiếu với những hợp đồng lớn như CTCP Kinh Đô với tổng giá trị BLPH là 40,8 tỷ đồng, CTCP cơ điện lạnh - 160 tỷ đồng; CTCP chế biến thực phẩm kinh đô miền bắc - 68 tỷ đồng. Vị trí này tiếp tục được khẳng định trong năm 2006 khi BVSC chiếm lĩnh 70% thị phần về BLPH cổ phiếu.
Đối với các CTCK độc lập còn lại cũng phát triển mạnh mẽ hoạt động này thông qua làm ĐLPH, thực hiện bán đấu giá cổ phần cho các DNCPH. Năm 2004 các CTCK ký 41 hợp đồng ĐLPH cho các DNCPH, năm 2005 là 51 hợp đồng trong đó riêng BSC chiếm gần 50% số hợp đồng (24 hợp đồng) và BVSC chiếm 31% (16 hợp đồng), còn lại là IBS - 5 hợp đồng, HSC - 3 hợp đồng; ARSC - 2 hợp đồng và Haseco - 1 hợp đồng. (Nguồn: UBCKNN)
Tuy nhiên, hoạt động BLPH của các CTCK được coi là có thế mạnh như VCBS, BVSC hay ARSC cũng đang gặp phải bài toán về vốn cho nghiệp vụ này mặc dù các công ty này đều đã tăng vốn điều lệ lên trên 100 tỷ đồng và có sự trợ giúp từ phía ngân hàng mẹ và tổng công ty bảo hiểm Việt nam (đối với BVSC).
Theo Nghị định 144, các CTCK chỉ được phép BLPH tối đa 30% vốn tự có cho một đợt phát hành, do đó qui mô của việc bảo lãnh là rất nhỏ, không thể thực hiện bảo lãnh với những hợp đồng có giá trị lớn. Các CTCK không thể thực hiện nhiều hợp đồng bảo lãnh trong cùng một khoảng thời gian và trường vốn để có thể bao tiêu hết số chứng khoán đã bảo lãnh trong thời gian dài. Để tháo gỡ vấn đề này, Bộ tài chính đã ban hành thông tư số 93/2005/TT-BTC ngày 15/7/2005 sửa đổi bổ sung thông tư số 60/2004/TT- BTC ngày 18/6/2004 hướng dẫn phát hành cổ phiếu ra công chúng, theo đó tổ chức BLPH chỉ được phép bảo lãnh cho một đợt phát hành với tổng giá trị cổ phiếu không vượt quá 30% vốn tự có của tổ chức BLPH trong trường hợp tổ chức BLPH đó nhận mua toàn bộ chứng khoán của đợt phát hành để bán lại. Tuy nhiên sự sửa đổi bổ sung này chỉ áp dụng đối với BLPH cổ phiếu
còn đối với BLPH trái phiếu vẫn không được phép vượt quá 30% vốn tự có. Do đó, mảng hoạt động BLPH của các CTCK chưa phát triển mạnh bằng hai nghiệp vụ môi giới và tự doanh.
Hoạt động tư vấn tài chính, tư vấn đầu tư chứng khoán: Bước sang giai đoạn này, hoạt động TVĐTCK trực tiếp vẫn chưa được triển khai mạnh mẽ ở các CTCK kể cả những công ty được coi là hàng đầu, có thế mạnh trong lĩnh vực chứng khoán như VCBS, SSI hay BVSC.
TVĐTCK gián tiếp đã có sự thay đổi đáng kể trong việc nâng cấp trang web của các CTCK, nội dung phân tích trong các bản tin phong phú và đầy đủ hơn. Tuy nhiên, đối tượng phân tích hẹp chỉ tập trung vào một số cổ phiếu niêm yết đang "nóng" trên thị trường và không diễn ra thường xuyên. Chất lượng các bài phân tích chưa có độ sâu, mới chỉ dừng lại ở mức độ mô tả, liệt kê, so sánh chưa có những nhận định sắc bén về tình hình thị trường cũng như tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp. Do đó, chưa đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư, mức độ tin tưởng của nhà đầu tư đối với dịch vụ tư vấn đầu tư của các CTCK còn nhiều hạn chế. Các nhà đầu tư vẫn còn băn khoăn về tính chính xác của thông tin tư vấn của các CTCK.
Hoạt động TVĐTCK là hoạt động mà khách hàng chủ yếu là các nhà đầu tư cá nhân, họ sử dụng dịch vụ tư vấn của CTCK nhằm phục vụ cho việc ra quyết định mua/bán một loại chứng khoán nào đó. Tuy nhiên, kết quả của hành động mua/bán chứng khoán của nhà đầu tư lại do chính họ gánh chịu. Do đó, để bảo vệ quyền lợi cũng như lợi ích của nhà đầu tư, luật pháp các nước trong đó có Việt nam cũng đưa ra một số điều cấm đối với nhân viên tư vấn khi tiến hành tư vấn cho khách hàng, các nhân viên tư vấn khi tiến hành tư vấn trực tiếp cho khách hàng không được: [3]
+ Tiến hành các hoạt động có thể làm cho khách hàng và công chúng hiểu lầm về giá cả, giá trị và bản chất của bất kỳ loại chứng khoán nào.