Cơ Sở Lý Luận Và Thực Tiễn Phát Triển Du Lịch Thời Kì Hội Nhập‌


một cách tương đối chính xác, nhanh chóng và toàn diện. Phương pháp này được tác giả sử dụng ở mục 1.1.5. Hệ thống tiêu chí đánh giá TNDL và mô hình phân tích SWOT phục vụ PTDL.

7.6. Phương pháp so sánh

Thông tin, số liệu sau khi được thu thập sẽ được so sánh, phân tích cho phù hợp với mục đích của từng phần. Qua phân tích, so sánh các thông tin sẽ được chắt lọc với độ tin cậy và hiệu quả cao nhất. Phương pháp này được tác giả sử dụng nhiều trong chương 2, phần thực trạng PTDL trên địa bàn Tây Ninh, so sánh số liệu thống kê của địa bàn nghiên cứu với các tỉnh vùng ĐNB và cả nước.

7.7. Phương pháp chuyên gia

Phương pháp chuyên gia có ưu điểm lớn trong việc sử dụng để đánh giá các nội dung thiên về định tính, kiểm nghiệm lại các tính toán và những nhận định làm căn cứ cho việc đưa ra các kết luận có tính khoa học. Phương pháp này góp phần quan trọng trong việc định hướng đưa ra các kết luận cần thiết, các kiến nghị và lựa chọn các phương án phát triển với những thông tin chính xác. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả cố gắng trao đổi, xin ý kiến tư vấn của các chuyên gia về các nội dung liên quan đến khảo sát sự hài lòng của du khách, khảo sát cộng đồng dân cư, đánh giá TNDL... Chuyên gia phần lớn là những người có nhiều kinh nghiệm, công tác ở Sở VH,TT&DL Tây Ninh cũng như Ban quản lý các di tích. Phương pháp này thể hiện rõ trong phần phụ lục (khảo sát của tác giả tại các điểm TNDL).

7.8. Phương pháp phân tích SWOT

SWOT là viết tắt của S – Strengths (Điểm mạnh), W – Weaknesses (Điểm yếu), O – Opportunities (Cơ hội) và T – Threats (Thách thức, đe dọa). Đây là phương pháp phân tích cho phép kết hợp các yếu tố bên trong (điểm mạnh, điểm yếu) và bên ngoài (cơ hội, thách thức) để đưa ra định hướng phát triển cho đối tượng nghiên cứu. Phương pháp này được tác giả thực hiện ở mục 1.1.5. Hệ thống tiêu chí đánh giá TNDL và mô hình phân tích SWOT phục vụ PTDL.

7.9. Phương pháp dự báo

Công tác dự báo dựa trên cơ sở thực tiễn, những tiềm năng du lịch, chiến lược phát triển KT - XH của tỉnh, phương hướng, nhiệm vụ phát triển ngành du lịch của Sở

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 200 trang tài liệu này.


VH,TT&DL Tây Ninh. Các tính toán dự báo dựa trên thực tiễn phát triển và các phương án trong Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Tây Ninh đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030, luận án dự báo theo phương án trung bình, dựa trên khả năng và những giải pháp có thể thực hiện ở hiện tại cũng như tương lai. Phương pháp này được thể hiện rõ trong chương 3, mục 3.2. Định hướng phát triển du lịch tỉnh Tây Ninh thời kì hội nhập.

Phát triển du lịch tỉnh Tây Ninh thời kì hội nhập - 4


8. Đóng góp mới của đề tài

Hội nhập là xu thế tất yếu, tạo ra thời cơ và thách thức cho sự phát triển các ngành kinh tế, trong đó có du lịch. Những đóng góp cụ thể của đề tài:

- Đúc kết và làm sáng tỏ những vấn đề cơ sở lí luận, thực tiễn và kinh nghiệm PTDL trong điều kiện hội nhập của Việt Nam, vận dụng vào nghiên cứu PTDL tại Tây Ninh.

- Vận dụng bộ chỉ số đánh giá về mức độ thuận lợi của TNDL để xác định tiềm năng du lịch của các điểm chủ yếu trên địa bàn, từ đó đưa ra định hướng và giải pháp khai thác hợp lí.

- Khai thác được kết quả khảo sát khách du lịch và cộng đồng để phân tích và đưa ra nhận định phù hợp với thực tế địa phương.

- Cải tiến và phát triển bộ tiêu chí đánh giá phát triển du lịch cấp tỉnh một cách toàn diện, khách quan trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

- Phân tích chi tiết thực trạng phát triển du lịch tỉnh Tây Ninh. Trên cơ sở đó chỉ ra những mặt đạt được và hạn chế của du lịch Tây Ninh xét theo bộ tiêu chí đánh giá.

- Đề xuất những định hướng chủ yếu và đưa ra các nhóm giải pháp cơ bản có cơ sở khoa học nhằm thúc đẩy du lịch Tây Ninh phát triển hiệu quả, bền vững, đáp ứng được yêu cầu của thời kì hội nhập.

- Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu tham khảo hữu ích trong nghiên cứu và giảng dạy; giúp cho việc tìm hiểu, nghiên cứu du lịch cấp tỉnh một cách toàn diện, khách quan, hiệu quả, theo kịp sự phát triển của thời đại mới; đặc biệt giúp cho các nhà quản lí địa phương, ngành có thêm cơ sở để ra các quyết định chính xác về TCLTDL nói riêng và tổ chức lãnh thổ kinh tế nói chung ở địa phương.


9. Cấu trúc của đề tài

Ngoài các phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính của luận án được thể hiện trong 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển du lịch thời kì hội nhập. Chương 2: Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch tỉnh Tây Ninh.

Chương 3: Định hướng chủ yếu và một số giải pháp phát triển du lịch tỉnh Tây Ninh thời kì hội nhập.


Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN DU LỊCH THỜI KÌ HỘI NHẬP‌

1.1. Cơ sở lý luận về phát triển du lịch‌

1.1.1. Một số khái niệm‌

1.1.1.1. Khái niệm du lịch

Hoạt động du lịch xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử phát triển của loài người, đã trở thành nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống. Du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng của nhiều nước trên thế giới. Song khái niệm “Du lịch” vẫn được hiểu rất khác nhau theo các cách tiếp cận và quan điểm riêng.

Trên thế giới có rất nhiều định nghĩa khác nhau về du lịch của nhiều tác giả như Clusman (1930), Hunziker và Krapf (1951), Michael Coltman... Năm 1991, tại Otawa (Canada), Hội nghị quốc tế về thống kê du lịch đưa ra định nghĩa:“Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài môi trường thường xuyên (nơi ở thường xuyên của mình), trong một khoảng thời gian ít hơn khoảng thời gian đã được các tổ chức du lịch quy định trước, mục đích của chuyến đi không phải để tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi vùng đến thăm” [dẫn lại từ 88].

Năm 1993, Hội nghị lần thứ 27 của UNWTO đã đưa ra khái niệm du lịch thay thế cho khái niệm năm 1963: “Du lịch là hoạt động về chuyến đi đến một nơi khác với môi trường sống thường xuyên của con người và ở lại đó để tham quan, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí hay các mục đích khác ngoài các hoạt động để có thù lao ở nơi đến với thời gian liên tục ít hơn một năm” [dẫn lại từ 88].

Theo Luật Du lịch Việt Nam mới nhất hiện nay (2017), “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp pháp khác” (điều 3, chương I) [46].

Qua khái niệm về “du lịch” trong Luật Du lịch 2017 (so với Luật Du lịch 2005), có thể thấy khái niệm “du lịch” không khác nhau nhiều, Luật Du lịch 2017 chỉ bổ sung và nhấn mạnh đến thời gian không quá 1 năm liên tục và có thể kết hợp du lịch với


mục đích hợp pháp khác. Ở Việt Nam khái niệm “du lịch” trong Luật Du lịch là được thừa nhận rộng rãi hơn cả.

1.1.1.2. Khái niệm phát triển du lịch

Du lịch có tầm quan trọng trong nền kinh tế nhưng để PTDL thì khái niệm PTDL vẫn chưa có sự thống nhất cao, chưa có một khái niệm chung được mọi người chấp nhận. Theo tác giả hiểu và vận dụng trong nghiên cứu này, PTDL được hiểu là sự khai thác và sử dụng hợp lí nguồn TNDL, sự gia tăng về lượng và chất du khách, doanh thu, cùng mức độ đóng góp của ngành du lịch cho nền kinh tế, đồng thời có sự hoàn thiện về mặt cơ cấu kinh doanh, thể chế và chất lượng kinh doanh của ngành du lịch.

1.1.1.3. Tài nguyên du lịch

Tài nguyên du lịch (TNDL) được xem là tiền đề để phát triển du lịch. TNDL càng phong phú, đặc sắc, có mức độ tập trung cao, biết khai thác và sử dụng hợp lí thì càng có sức hấp dẫn với du khách và có hiệu quả kinh doanh du lịch cao. Tuy nhiên khái niệm TNDL cũng không hoàn toàn giống nhau.

Theo I.I Pirojnik (1985), “TNDL là những tổng thể tự nhiên, văn hóa – lịch sử và những thành phần của chúng giúp cho việc phục hồi, phát triển thể lực, trí lực, khả năng lao động và sức khỏe của con người mà chúng được sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp để tạo ra dịch vụ du lịch gắn liền với nhu cầu ở thời điểm hiện tại hay tương lai và trong điều kiện kinh tế - kĩ thuật cho phép” [dẫn lại từ 88].

Theo Nguyễn Minh Tuệ và nnk (2010), đưa ra định nghĩa về TNDL như sau: “TNDL là tổng thể tự nhiên, văn hóa – lịch sử cùng các thành phần của chúng có sức hấp dẫn du khách; đã, đang và sẽ được khai thác, cũng như bảo vệ nhằm đáp ứng nhu cầu của du lịch một cách hiệu quả và bền vững” [88].

Theo Luật du lịch Việt Nam năm 2017 quy định tại điều 3, chương I thì “TNDL là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên và các giá trị văn hóa làm cơ sở để hình thành sản phẩm du lịch, khu du lịch, điểm du lịch, nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch. TNDL bao gồm TNDL tự nhiên và TNDL văn hóa” [46].

Khái niệm TNDL trong Luật Du lịch Việt Nam năm 2017 (so với Luật Du lịch 2005) không có gì khác biệt lớn, chỉ khác nhau về tên gọi trong cách phân loại TNDL


(TNDL văn hóa thay thế cho TNDL nhân văn), còn về bản chất thì gần như tương tự nhau.

Như vậy, qua các nghiên cứu trên ta thấy có nhiều cách tiếp cận đối với khái niệm TNDL giữa các nhà nghiên cứu. Trong luận án này tác giả sử dụng khái niệm trong Luật Du lịch vì nó đáp ứng được các yêu cầu cơ bản của TNDL.

1.1.1.4. Sản phẩm du lịch

Theo Michael M. Coltman, “sản phẩm du lịch (SPDL) là một tổng thể bao gồm các thành phần không đồng nhất hữu hình và vô hình” [dẫn lại từ 88].

Theo Nguyễn Minh Tuệ và nnk (2010), “SPDL là các dịch vụ, hàng hóa cung cấp cho du khách dựa trên cơ sở khai thác các tiềm năng du lịch nhằm cung cấp cho khách một khoảng thời gian thú vị, một kinh nghiệm du lịch trọn vẹn và sự hài lòng” [88].

Theo Luật Du lịch Việt Nam năm 2017: “Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ trên cơ sở khai thác giá trị TNDL để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch” [46].

Về cơ bản, khái niệm SPDL trong Luật Du lịch năm 2017 (so với năm 2005) tương tự nhau, khái niệm trong Luật Du lịch năm 2017 chỉ làm rõ thêm trên cơ sở khai thác các giá trị tài nguyên. Qua các khái niệm trên, có thể hiểu SPDL là sự kết hợp những dịch vụ du lịch và phương tiện vật chất cần thiết trên cơ sở khai thác các TNDL nhằm đáp ứng nhu cầu của du khách.

1.1.1.5. Khách du lịch

Khách du lịch là người thực hiện các chuyến đi, là đối tượng phục vụ của hoạt động du lịch. Có nhiều khái niệm được đưa ra không hoàn toàn giống nhau. Nhìn chung các khái niệm này đưa ra đều dựa vào 3 khía cạnh gồm mục đích chuyến đi, thời gian và không gian của chuyến đi.

Theo một số nhà nghiên cứu, định nghĩa đầu tiên về khách du lịch xuất hiện vào cuối thế kỉ XVIII tại Pháp: “Khách du lịch là những người thực hiện một cuộc hành trình lớn”. Vào đầu thế kỉ XX, nhà kinh tế học người Áo, Josef Stander định nghĩa: “Khách du lịch là những hành khách đi lại, ở lại theo ý thích ngoài nơi cư trú thường xuyên để thỏa mãn các nhu cầu sinh hoạt cao cấp mà không theo đuổi các mục đích kinh tế” [dẫn lại từ 88].


Theo Luật Du lịch Việt Nam năm 2017 quy định tại điều 3 chương I: “Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc để nhận thu nhập ở nơi đến” [46]. Cũng theo điều 10, chương II trong Luật Du lịch 2017 quy định:

“Khách du lịch bao gồm khách du lịch nội địa, khách du lịch quốc tế đến Việt Nam và khách du lịch ra nước ngoài.

Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú ở Việt Nam đi du lịch trong lãnh thổ Việt Nam.

Khách du lịch quốc tế đến Việt Nam là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam du lịch.

Khách du lịch ra nước ngoài là công dân Việt Nam và người nước ngoài cư trú ở Việt Nam đi du lịch nước ngoài”.

Như vậy qua khái niệm “khách du lịch” trong Luật Du lịch 2017 (so với Luật Du lịch 2005), không có sự khác biệt lớn. Tuy nhiên, Luật Du lịch 2017 quy định chi tiết và rõ ràng hơn, khách du lịch bao gồm ba bộ phận: khách du lịch nội địa, khách du lịch quốc tế đến Việt Nam và khách du lịch ra nước ngoài.

1.1.1.6. Các loại hình du lịch

Loại hình du lịch được hiểu “là một tập hợp các sản phẩm du lịch có những đặc điểm giống nhau, hoặc vì chúng thỏa mãn những nhu cầu, động cơ du lịch tương tự hoặc được bán cho cùng một nhóm khách hàng hoặc vì chúng có cùng một cách phân phối, một cách tổ chức như nhau hoặc được xếp chung theo một mức giá nào đó” [20].

Các hoạt động du lịch rất phong phú và đa dạng. Tùy theo yêu cầu và mục đích khác nhau mà các hoạt động đó có thể phân thành các loại hình khác nhau. Theo Nguyễn Minh Tuệ và nnk (2010), các loại hình du lịch được phân loại như sau [88]:

- Phân loại theo mục đích chuyến đi: du lịch được chia thành: du lịch thuần túy và du lịch kết hợp.

+ Du lịch thuần túy: bao gồm các loại hình sau: du lịch tham quan; du lịch nghỉ dưỡng; du lịch giải trí; du lịch khám phá; du lịch thể thao không chuyên…


+ Du lịch kết hợp: ngoài mục đích du lịch thuần túy cũng có nhiều cuộc hành trình tham quan vì các lý do khác nhau như học tập, công tác, hội nghị, tâm linh… và trong cuộc hành trình này không ít người sử dụng các dịch vụ du lịch. Do vậy sẽ có một số loại hình du lịch kết hợp.

- Phân loại theo tài nguyên du lịch: du lịch được phân thành hai hình thức cơ bản: du lịch văn hóa và du lịch sinh thái.

Luật Du lịch Việt Nam (năm 2017) cũng đã nêu ra một số loại hình du lịch cơ bản sau:

“Du lịch cộng đồng: là loại hình du lịch được phát triển trên cơ sở các giá trị văn hóa của cộng đồng, do cộng đồng dân cư quản lý, tổ chức khai thác và hưởng lợi.

Du lịch văn hóa: là loại hình du lịch được phát triển trên cơ sở khai thác giá trị văn hóa, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống, tôn vinh giá trị văn hóa mới của nhân loại.

Du lịch sinh thái: là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hóa địa phương, có sự tham gia của cộng đồng dân cư, kết hợp giáo dục về bảo vệ môi trường”.

- Phân loại theo lãnh thổ hoạt động: du lịch được chia thành: du lịch trong nước và du lịch quốc tế, trong đó du lịch quốc tế được chia thành 2 loại: du lịch quốc tế chủ động và du lịch quốc tế bị động.

Qua các định nghĩa và phân loại trên cho thấy khái niệm loại hình du lịch có nhiều cách hiểu khác nhau, mỗi cách hiểu là sự gộp nhóm của nhiều loại hình du lịch cụ thể. Một số loại hình du lịch phổ biến hiện nay được sử dụng trong luận án: du lịch tham quan, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch tâm linh, du lịch về nguồn, du lịch văn hóa, du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du lịch chữa bệnh...

1.1.1.7. Chương trình du lịch - Tour du lịch

Tour du lịch là một thuật ngữ lấy nguyên gốc từ danh từ “tour” trong tiếng Anh, có nghĩa là “Chuyến đi du lịch”. Tour du lịch là sản phẩm du lịch được đánh giá theo một lộ trình có sự đặt trước về thời gian, địa điểm và những dịch vụ liên quan. Như vậy, khái niệm tour du lịch gần nhất với khái niệm chương trình du lịch.

Xem tất cả 200 trang.

Ngày đăng: 10/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí