Đầu tư vào lĩnh vực du lịch đòi hỏi một lượng vốn lớn, thời gian thu hồi vốn lâu, cho nên tùy điều kiện cụ thể của địa phương mà xác định cơ chế ưu đãi cho phù hợp. Chính sách ban hành vừa phải bảo đảm nguyên tắc không trái với khung pháp lý chung trong lĩnh vực du lịch, vừa tạo sự thông thoáng, hấp dẫn các nhà đầu tư.
Địa phương có nhiều tiềm năng, lợi thế và nguồn tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng, nhưng nếu không có chính sách phù hợp thì không thể thu hút và khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực du lịch. Các dự án đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ du lịch có tính chất quyết định đến sự phát triển nhanh hay chậm của ngành du lịch địa phương. Do vậy, cần chú trọng đến việc thu hút đầu tư, mời gọi các doanh nghiệp có năng lực quản lý điều hành và năng lực tài chính mạnh đầu tư vào lĩnh vực du lịch.
Đối với sự phát triển của ngành du lịch trên địa bàn huyện, các văn bản và chính sách sau đây có tác động trực tiếp: Luật Du lịch, Luật Đầu tư, các chính sách của tỉnh như: chính sách ưu đãi đầu tư; chính sách tài chính – tín dụng, chính sách hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng ngành du lịch; chính sách hỗ trợ xúc tiến du lịch, xây dựng sản phẩm du lịch và đào tạo nguồn nhân lực du lịch; chính sách đất đai; chính sách giá cả các dịch vụ cấu thành sản phẩm du lịch,…
* Xây dựng tổ chức bộ máy và quản lý phát triển du lịch cấp huyện
Tổ chức, điều hành các hoạt động du lịch là thực hiện chức năng tổ chức điều hành sự phát triển của ngành du lịchtrên địa bàn huyện. Nhiệm vụ của tổ chức điều hành là phải lái sự phát triển du lịch đi đúng hướng. Ở đây có nghĩa là đi đúng theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đã được vạch ra; cũng có nghĩa là phải phát triển theo đúng quy định của luật pháp hiện hành. Do đó cần chú ý đến các vấn đề sau:
- Tổ chức hệ thống đối tượng quản lý. Sản phẩm du lịch được tạo ra do sự kết hợp những dịch vụ và phương tiện vật chất trên cơ sở khai thác các tài nguyên du lịch. Do đó, để có hoạt động du lịch phải khai thác các tài nguyên du lịch. Tài nguyên du lịch không chỉ là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố văn hoá lịch sử mà nó là kết hợp của cảnh quan thiên nhiên yếu tố văn hoá lịch sử với thành quả lao động
sáng tạo của con người. Do vậy, việc đầu tiên là phải quy hoạch tốt hệ thống các điểm du lịch, khu du lịch, tuyến du lịch.
- Tổ chức và điều hành hệ thống chủ thể quản lý. Đối với ngành du lịch cấp huyện có các vấn đề sau cần quan tâm: Đầu tiên là bộ máy quản lý phải tương xứng với nhiệm vụ; thứ đến, là chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong ngành du lịch.
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển du lịch theo hướng bền vững ở thị xã Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa - 1
- Phát triển du lịch theo hướng bền vững ở thị xã Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa - 2
- Cơ Sở Lý Luận Về Phát Triển Du Lịch Bền Vững
- Một Số Kinh Nghiệm Phát Triển Du Lịch Theo Hướng Bền Vững
- Điều Kiện Và Tiềm Năng Cho Phát Triển Du Lịch Ở Thị Xã Sầm Sơn Sầm Sơn
- Thực Trạng Phát Triển Du Lịch Theo Hướng Bền Vững Ở Sầm Sơn Giai Đoạn 2010 – 2015
Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.
- Vận hành sự hoạt động của đối tượng và chủ thể quản lý. Mục đích của việc quản lý vận hành là: một, bảo đảm các hoạt động ăn khớp, thông suốt từ đầu đến cuối; hai, tốc độ hoạt động ở mức tích cực nhất; ba, hoạt động đúng hướng (không chệch khỏi quỹ đạo đã định).
Ngoài các nội dung trong tổ chức, điều hành đã nêu, thì việc bảo đảm cơ sở hạ tầng cho sự phát triển du lịch là một nội dung mà công tác tổ chức, điều hành cần đặc biệt quan tâm.
* Thanh tra, kiểm tra công tác tổ chức, quản lý và các hoạt động kinh doanh cấp huyện
Nội dung này bao gồm tổng thể các hoạt động của chính quyền địa phương nhằm phát hiện và xử lý những sai sót, những vi phạm cản trở ngành du lịch ở địa phương phát triển mạnh mẽ và đúng hướng.
Kiểm tra có thể hiểu là hoạt động thường xuyên của cơ quan cấp trên với cơ quan cấp dưới, hoặc kiểm tra cụ thể một vấn đề nào đó. Hoạt động kiểm tra Nhà nước về các hoạt động du lịch bao gồm: kiểm tra của cơ quan Nhà nước thẩm quyền chung, kiểm tra chức năng và kiểm tra nội bộ. Kiểm tra của các cơ quan thẩm quyền chung tiến hành qua các hình thức: nghe báo cáo và đánh giá báo cáo của đối tượng bị kiểm tra, tự tổ chức các đoàn kiểm tra về từng vấn đề. Kiểm tra chức năng do cơ quan quản lý ngành thực hiện. Thông qua các hình thức kể trên có thể đánh giá chuẩn xác và xác định những can thiệp cần thiết của Nhà nước vào sự phát triển của hoạt động du lịch ở địa phương.
1.2.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới du lịch theo hướng bền vững
a. Nguồn tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, di tích cách mạng, giá trị nhân văn, công trình lao động sáng tạo của con người có thể được sử
dụng nhằm thoả mãn nhu cầu du lịch; là yếu tố cơ bản để hình thành các điểm du lịch, khu du lịch nhằm tạo lập ra sự hấp dẫn du khách.
Tài nguyên du lịch bao gồm hai nhóm: tài nguyên du lịch nhân văn và tài nguyên du lịch thiên nhiên.Tài nguyên du lịch thiên nhiên như: đất, nước, khí hậu, sinh vật, khoáng sản,...tạo thành cảnh quan, các dạng địa hình, đóng vai trò quan trọng trong quá trình thu hút du khách, giúp du lịch phát triển.Tài nguyên nhân văn gồm: hệ thống các di tích lịch sử, di tích văn hoá, phong tục tập quán, lễ hội... là yếu tố cơ bản để phát triển du lịch.
b. Cơ sở vật chất kỹ thuật và thiết bị hạ tầng
Cơ sở vật chất kỹ thuật, thiết bị hạ tầng là vấn đề không thể thiếu được, là điều kiện quan trọng để phát triển du lịch và nó có ảnh hưởng lớn đến việc thu hút khách du lịch đến với địa điểm du lịch nó bao gồm: mạng lưới giao thông vận tải; mạng lưới thông tin liên lạc và internet; cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch.
c. Chất lượngnguồn nhân lực ngành du lịch
Là yếu tố quan trọng trong sự phát triển của du lịch. Chất lượng công tác kinh doanh chịu ảnh hưởng rất nhiều từ việc sử dụng lao động có chất lượng hay không bởi vì lao động làm việc trong du lịch không những thực hiện công tác chuyên môn về du lịch của mình họ còn thực hiện nhiệm vụ quan trọng là trao đổi văn hoá, giao tiếp với du khách tạo cho du khách có cảm giác hứng khởi trong lúc du lịch.
d. Yếu tố tác động đến cầu về dịch vụ du lịch
Các yếu tố tác động đến cầu về dịch vụ du lịch bao gồm mức thu nhập, trình độ văn hoá, thời gian rỗi.
Thứ nhất, trình độ văn hoá: khi nhận thức của con người càng cao thì việc họ thích thú với khám phá thế giới, thiên nhiên, vui chơi, giải trí và nghỉ ngơi ngày càng tăng về nhu cầu, động cơ đi du lịch tăng lên. Theo một số cuộc điều tra cho thấy: nếu người chủ gia đình có trình độ văn hoá ở mức trung học thì tỷ lệ đi du lịch là 65%, trình độ cao đẳng tỷ lệ này là 75% , trình độ đai học thì tỉ lệ này lên tới 85%.
Thứ hai, mức thu nhập (hay điều kiện sống): đây là nhân tố quan trọng để phát triển du lịch. Khi thu nhập của người dân tăng lên thì ngoài việc chi
tiêu cho cơm ăn áo mặc thì họ sẵn sàng chi tiêu cho các dịch vụ trong đó có cả việc đi du lịch.
Cuối cùng là thời gian rỗi: phần lớn mọi người đi du lịch khi họ rảnh rỗi (ngày nghỉ lễ, nghỉ phép, cuối tuần...). Vì vậy nhân tố này cũng rất quan trọng để phát triển du lịch.
e. Đường lối chính sách phát triển du lịch
Là nhân tố ảnh hưởng lớn đến việc phát triển du lịch bền vững, với một đường lối chính sách nhất định có thể kìm hãm hay thúc đẩy du lịch phát triển. Đường lối phát triển du lịch nằm trong đường lối phát triển chung, đường lối phát triển kinh tế - xã hội vì vậy phát triển du lịch cũng là đang thực hiện sự phát triển chung của xã hội.
f. Tham gia của cộng đồng
Sự tham gia của cộng đồng dân cư vào các hoạt động du lịch làm cho du lịch phát triển bền vững hơn. Sự tham gia của cộng đồng dân cư không những tạo thu nhập cho cộng đồng dân cư mà còn tăng tính trách nhiệm trong việc phát triển du lịch. Việc tham gia này là hết sức cần thiết và không thể thiếu được.
1.2.2.4. Các tiêu chí đánh giá phát triển du lịchtheo hướng bền vững
Có nhiều tiêu chí đánh giá phát triển du lịch theo hướng bền vững, tuy nhiên, trong phạm vi phát triển du lịch cấp huyện, luận văn sử dụng các tiêu chí sau:
* Các tiêu chí về kinh tế.
- Chỉ tiêu khách du lịch: Đây là chỉ tiêu quan trọng hàng đầu đối với quá trình phát triển du lịch. Để đánh giá được tính phát triển bền vững hay không thì chỉ tiêu khách du lịch phải tăng trưởng liên tục năm này qua năm khác. Trong chỉ tiêu khách du lịch, ngoài số lượng tuyệt đối về khách, các chỉ tiêu khác cần phải tính đến trong quá trình phát triển bền vững đó là số ngày lưu trú trung bình, số khách quay trở lại, khả năng thanh toán, mức độ hài lòng của khách…
- Chỉ tiêu thu nhập và tổng sản phẩm quốc nội ngành du lịch: Thu nhập du lịch (của một địa phương nào đó) bao gồm tất cả các khoản thu được do khách du lịch chi trả (khi đến địa phương đó) cho dịch vụ lưu trú và ăn uống; vận chuyển
khách du lịch (không kể vận chuyển quốc tế); các dịch vụ vui chơi giải trí, mua sắm hàng lưu niệm và các dịch vụ bổ sung khác. Đối với ngành du lịch, việc tăng trưởng thường xuyên, liên tục của chỉ tiêu GDP không những chỉ đảm bảo cho sự phát triển bền vững về mặt kinh tế, mà còn cho thấy vị trí của ngành trong tổng thể nền kinh tế quốc dân.
- Chỉ tiêu hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch: hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật trong du lịch (bao gồm các cơ sở lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, các phương tiện vận chuyển, các khu du lịch, các văn phòng lữ hành, các cơ sở dịch vụ bổ sung khác…) là thước đo phản ánh trình độ phát triển của ngành du lịch. Sự phát triển cả về số lượng, chủng loại và chất lượng của hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, một mặt đáp ứng được mọi nhu cầu của mọi đối tượng khách, mặt khác góp phần quan trọng vào việc hấp dẫn, thu hút khách, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của ngành.
- Chỉ tiêu nguồn nhân lực du lịch: du lịch là một ngành có nhu cầu cao đối với đội ngũ nguồn lao động sống. Chất lượng đội ngũ lao động sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của sản phẩm du lịch, chất lượng dịch vụ và kết quả cuối cùng là ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh, đến sự tăng trưởng của các chỉ tiêu du lịch khác. Như vậy, chất lượng đội ngũ lao động được đào tạo không chỉ là yếu tố thu hút khách, nâng cao uy tín của ngành, của đất nước mà còn là một yếu tố quan trọng trong cạnh tranh thu hút khách, đảm bảo sự phát triển du lịch bền vững.
* Các tiêu chí về tài nguyên - môi trường
- Số lượng (tỷ lệ) các khu, điểm du lịch được đầu tư tôn tạo và bảo tồn: chỉ tiêu về số lượng các khu, điểm du lịch được đầu tư bảo tồn và tôn tạo được coi là một trong số các tiêu chí cơ bản của sự phát triển bền vững của hoạt động du lịch về mặt tài nguyên - môi trường. Theo tổ chức Du lịch Thế giới, nếu tỷ lệ này vượt quá 50% thì hoạt động du lịch được xem là trong trạng thái phát triển bền vững.
- Số lượng (tỷ lệ) các khu, điểm du lịch được quy hoạch: việc xây dựng quy hoạch du lịch làm căn cứ cho việc triển khai thực hiện các kế hoạch, các dự án phát triển du lịch làm căn cứ cho việc triển khai thực hiện các kế hoạch, các dự án phát triển cụ thể đóng vai trò quan trọng trong hoạt động phát triển du lịch.
- Áp lực lên môi trường - tài nguyên tại các khu, điểm du lịch: vấn đề môi trường tại các khu, điểm du lịch cần được coi trọng trong quá trình phát triển du lịch nhằm đạt tới mục tiêu phát triển du lịch bền vững. Việc quản lý và hạn chế những áp lực lên các nguồn tài nguyên và môi trường được thông qua các biện pháp quản lý nhằm giảm thiểu các chất thải; mức độ kiểm soát các hoạt động phát triển du lịch; mức độ đầu tư bảo tồn và duy trì tính đa dạng sinh học. Vấn đề quản lý áp lực lên tài nguyên môi trường tại các khu, điểm du lịch cũng liên quan đến khả năng sức chứa. Đó là việc quản lý số lượng khách đến không vượt quá khả năng đáp ứng về tài nguyên và không làm ảnh hưởng đến khả năng phát triển của các hệ sinh thái trong khu vực.
* Các tiêu chí về xã hội
Trong phát triển du lịch bền vững đòi hỏi ngành du lịch phải có những đóng góp cụ thể cho quá trình phát triển của toàn xã hội: tạo công ăn việc làm cho người lao động; tham gia xoá đói giảm nghèo; nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân; chia sẻ lợi ích từ các hoạt động du lịch, đảm bảo sự công bằng trong phát triển.
- Mức độ phát triển hệ thống các doanh nghiệp du lịch vừa và nhỏ: Ngoài ý nghĩa về mặt kinh tế, việc phát triển hệ thống các doanh nghiệp du lịch vừa và nhỏ còn có ý nghĩa cao về mặt xã hội, tạo điều kiện để một bộ phận người lao động ở địa phương có công ăn việc làm, cải thiện chất lượng cuộc sống nâng cao dân trí…
- Tác động đến xã hội từ các hoạt động du lịch: du lịch là một ngành kinh tế mang tính xã hội hoá cao, vì vậy các hoạt động phát triển du lịch có tác động mạnh mẽ nhiều mặt của đời sống xã hội của hoạt động du lịch vừa mang tính tích cực vừa mang tính tiêu cực. Để đảm bảo cho sự phát triển du lịch bền vững về mặt xã hội, vấn đề đặt ra là các tác động tiêu cực (không thể tránh khỏi) đến xã hội từ các hoạt động phát triển du lịch cần phải được kiểm soát và quản lý. Nhiều vấn đề xã hội còn tồn tại hiện nay ở một chừng mực nào đó liên quan đến phát triển du lịch (ma tuý, nạn mại dâm, hoạt động sòng bạc không kiểm soát, người lang thang níu kéo ăn xin khách du lịch và nhiều vấn đề xã hội khác).
- Mức độ hài lòng và hợp tác của cộng đồng địa phương đối với các hoạt động du lịch: để đảm bảo cho du lịch phát triển bền vững, cần có sự ủng hộ và hợp
tác của cộng đồng dân cư địa phương - chủ nhân của các nguồn tài nguyên du lịch. Nếu có được sự ủng hộ và hợp tác của cộng đồng thì chính họ sẽ là người bảo vệ nguồn tài nguyên và môi trường. Do vậy mức độ hài lòng của cộng đồng dân cư đối với các hoạt động du lịch sẽ phản ánh mức độ bền vững của du lịch trong quá trình phát triển.
1.3. Kinh nghiệm phát triển du lịch theo hướng bền vững trong và ngoài nước
1.3.1. Một số điển hình phát triển du lịch không bền vững
1.3.1.1. Phát triển du lịch ở Pattaya (Thái Lan)
Pattaya là một thành phố của Thái Lan nằm bên bờ biển phía Đông bên vịnh Thái Lan, đây là một trong những trung tâm du lịch lớn nhất của Thái Lan.
Trong gần ba thập kỷ từ năm 1970, Pattaya đã đầu tư xây dựng từ hơn 400 lên đến gần 25.000 phòng khách sạn. Với việc ồ ạt phát triển các cơ sở lưu trú trong một thời gian ngắn tại một địa điểm đã dẫn đến những ảnh hưởng tiêu cực. Biển trở nên rất ô nhiễm và Uỷ ban Môi trường quốc gia Thái Lan đã phải đưa ra tuyên bố là việc tắm biển ở đây không an toàn vào năm 1989. Cùng với đó là các đặc điểm tự nhiên khác bị phá huỷ một cách nghiêm trọng, sự đánh mất cây cối, động vật hoang dã, làm cho môi trường trở nên khô cằn. Sự phát triển không có quy hoạch đó đã kéo theo sự ùn tắc về giao thông, thiếu nước sinh hoạt, xung đột về chính trị và cả về mặt xã hội ngày càng gia tăng làm gây cản trở cho sự phát triển du lịch bền vững. Khung cảnh tự nhiên của khu du lịch bị mất đi, độ hấp dẫn khách du lịch giảm sút. Những nguyên nhân đó đã làm cho nhiều du khách không muốn đến với Pattaya và đến năm 1989 thì hầu như không có khách du lịch nào muốn quay trở lại với địa điểm du lịch này nữa. Với những giải pháp hữu hiệu được đưa ra vào năm 1993 nhằm giải quyết các vấn đề trên thì xu hướng phát triển mới dần bị đẩy lùi và số lượng khách đã có dấu hiệu tăng trở lại.
Một trong những nguyên nhân chính đánh mất sự nổi tiếng của khu du lịch Pattaya đó chính là sự suy thoái về mặt môi trường, ô nhiễm, sự phá huỷ môi trường tự nhiên, sạt lở, đánh mất cây cối, động vật hoang dã.... Vấn đề đặt ra ở đây là phải nhận thức được vấn đề phát triển du lịch phải đi đôi với vấn đề bảo vệ môi trường,
cảnh quan du lịch. Mọi sự phát triển du lịch tách rời vấn đề môi trường đều dẫn đến thất bại. Để du lịch phát triển bền vững thì phải có chính sách phát triển du lịch hợp lý, phải kết hợp giữa việc phát triển du lịch với viêc bảo vệ môi trường, cảnh quan khu du lịch.
1.3.1.2. Phát triển du lịch ở đảo Canary (Tây Ban Nha)
Đảo Canary gồm 7 đảo và một số đảo nhỏ ở Đại Tây Dương, cách Tây Ban Nha lục địa khoảng 1.500 km, nổi tiếng là trung tâm đa dạng sinh học với sự tập trung của nhiều loài sinh vật biển, có nhiều cảnh quan đẹp, phong phú, khí hậu lý tưởng. Điều đó đã giúp cho nơi đây trở thành điểm đến quen thuộc của du khách Châu Âu. Ở đây du lịch được phát triển khá sớm bắt đầu vào cuối thế kỷ 19 với một số ít du khách Châu Âu đến đây vì lý do chữa bệnh. Từ năm 1900 với 8.000 du khách thì đến năm 1975 thì quần đảo Canary đã đón được 2 triệu khách và con số đó tiếp tục tăng nhanh, vào năm 1990 là 7,4 triệu khách và 13 triệu khách vào năm 1999. Ngành du lịch dịch vụ chiếm gần 80% tổng thu nhập của nền kinh tế. Điều đó cho thấy, nền kinh tế ở đây phụ thuộc vào du lịch quá nhiều.
Sự phát triển nhanh của du lịch ở Canary nhưng không có những quy hoạch phát triển cở sở hạ tầng du lịch một cách hợp lý đã dẫn đến việc quá tải du lịch. Quá trình xây dựng bất hợp lý đó đã kéo theo sự mất kiểm soát trong phân bổ nguồn nước sinh hoạt, phân bổ công việc của các nhân tố khác, tắc nghẽn giao thông.... Sự gia tăng xây dựng không có quy hoạch hợp lý ở Canary đã tạo ra áp lực về đất đai. Cùng với đó là sự đầu tư ồ ạt của người nước ngoài vào nơi đây đã tạo ra môi trường không tốt cho dân cư địa phương và cư dân địa phương đang dần dần trở thành những người thiểu số.
Sự phát triển quá nóng ở quần đảo Canary đã cho thấy tính chất không bền vững trong quá phát triển du lịch. Cùng với lượng du khách đông là việc thải ra hàng triệu tấn rác thải, ô nhiễm không khí do quá nhiều các phương tiện chuyên trở. Mức độ khai thác du lịch bất hợp pháp ngày càng gia tăng do người dân chạy theo lợi nhuận đã làm cho cảnh quan nơi đây xuống cấp nghiêm trọng. Kinh nghiệm rút ra từ quần đảo Canary đó là cần phải xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển