Phát Triển Công Nghiệp Và Phát Triển Công Nghiệp Theo Hướng Bền Vững


nghiệp, những tác động của nó đến các vấn đề xã hội và môi trường, từ đó kế thừa làm rõ nội dung và hệ các tiêu chí đánh giá tính bền vững của phát triển công nghiệp.

Thứ

ba, một số

công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến vùng

KTTĐ Bắc Bộ, phản ánh một số khía cạnh thuộc đối tượng và phạm vi

nghiên cứu của luận án, như phát triển công nghiệp ở Hà nội, Bắc Ninh; phát triển công nghiệp nông thôn hay xây dựng các tiêu chí phát triển bền vững, quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường…Các công trình này giúp nghiên cứu sinh có thêm cái nhìn tổng quát về vùng KTTĐ Bắc Bộ cả về thành tựu và những hạn chế trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường nói chung, phát triển công nghiệp nói riêng, từ đó làm tiền đề nghiên cứu bổ sung thực trạng phát triển công nghiệp theo hướng bền vững trong vùng.

Thtư, mặc dù có đối tượng nghiên cứu và mục tiêu nghiên cứu

khác nhau nhưng một số công trình đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu và tiếp cận khoa học, phù hợp. Đây thực sự là những gợi ý quan trọng giúp nghiên cứu sinh lựa chọn kế thừa và sử dụng các phương pháp nghiên cứu, tiếp cận một cách hợp lý nhất để giải quyết được mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án.

Như vậy, đã có các công trình tiếp cận dưới những góc độ khác nhau cả về lý luận và thực tiễn trên các khía cạnh phát triển công nghiệp theo hướng bền vững. Những công trình nêu trên thực sự là nguồn tài liệu ban đầu vô giá, giúp ích to lớn cho nghiên cứu sinh kế thừa thực hiện nghiên cứu đề tài luận án của mình.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.

Tuy nhiên, các công trình trên chưa đề cập đến các vấn đề sau:

Mt là, chưa công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện vấn đề phát triển công nghiệp trên ba nội dung của PTBV: kinh tế - xã hội -

Phát triển công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ Việt Nam theo hướng bền vững - 5

môi trường

nhằm duy trì tốc độ

và chất lượng tăng trưởng công nghiệp

cao, ổn định và đảm bảo yêu cầu về sự hài hoà giữa phát triển công nghiệp


với các mặt của PTBV.

Hai là, chưa có công trình nghiên cứu nào đưa ra được hệ thống các

giải pháp có tính tổng thể nhằm phát triển công nghiệp theo hướng bền

vững và chưa tiếp cận vấn đề phát triển công nghiệp theo hướng bền vững dưới góc độ khoa học Kinh tế chính trị.

Ba là, cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào mang tính toàn diện, sâu sắc, một cách hệ thống về vấn đề phát triển công nghiệp theo hướng bền vững đối với một vùng kinh tế, nhất là đối với một vùng lãnh thổ quan trọng như vùng KTTĐ Bắc Bộ của Việt Nam.

Tóm lại, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu tổng thể về phát triển công nghiệp theo hướng bền vững ở vùng KTTĐ Bắc Bộ dưới góc độ chuyên ngành kinh tế chính trị. Vì vậy, đây là đề tài độc lập, không trùng lắp với các công trình khoa học đã công bố trong và ngoài nước.

3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

Luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất các quan điểm, giải

pháp phát triển công nghiệp vùng KTTĐ Bắc Bộ Việt Nam theo hướng bền vững.

4. Nội dung nghiên cứu của đề tài

Làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến phát triển công nghiệp theo hướng bền vững.

Khái quát kinh nghiệm quốc tế về phát triển công nghiệp theo hướng bền vững và rút ra bài học kinh nghiệm cho vùng KTTĐ Bắc Bộ Việt Nam

Phân tích, làm rõ được những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong phát triển công nghiệp theo hướng bền vững trên địa bàn vùng KTTĐ Bắc Bộ Việt Nam. Trên cơ sở đó, xác định những vấn đề đặt ra cần giải quyết.


Dự báo bối cảnh quốc tế, trong nước và đề xuất quan điểm, giải

pháp chủ yếu nhằm phát triển công nghiệp trên địa bàn vùng KTTĐ Bắc Bộ Việt Nam theo hướng bền vững.

5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài

Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật khoa học, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinh tế chính trị Mác - Lênin như: phương pháp trừu tượng hoá khoa học; kết hợp lôgic và lịch sử; phân tích tổng hợp. Bên cạnh đó, luận án còn sử dụng các phương pháp sau:

- Phương pháp tiếp cận hệ thống: PTBV nói chung và phát triển công nghiệp nói riêng là một hệ thống gắn kết hữu cơ và sự kết hợp hài hoà của các mặt kinh tế, xã hội, môi trường. Phương pháp tiếp cận hệ thống giúp khắc phục cách nhìn siêu hình về phát triển công nghiệp.

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu được sử dụng để thu thập thông tin về cơ sở lý luận, các công trình nghiên cứu trước đây, các văn bản pháp

luật, chủ

trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về

phát triển công

nghiệp, phát triển bền vững, kinh nghiệm các nước, các số liệu thống kê...

- Phương pháp so sánh, đối chứng và dự báo. Để đánh giá thực trạng

phát triển công nghiệp ở vùng KTTĐ Bắc Bộ trong thời gian qua có theo

hướng bền vững hay không, phải so sánh, đối chứng với các tiêu chí đưa ra. Sử dụng phương pháp dự báo để dự báo bối cảnh và các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển công nghiệp ở vùng KTTĐ Bắc Bộ trong thời gian tới.

- Kết hợp phương pháp phân tích định tính với phân tích định lượng để làm rõ hơn tính bền vững của phát triển công nghiệp ở vùng KTTĐ Bắc Bộ trong giai đoạn 2001-2012. Phương pháp phân tích định tính nhằm làm rõ bản chất của phát triển công nghiệp theo hướng bền vững. Phương pháp phân tích


định lượng để kiểm chứng và tăng tính thuyết phục cho các nhận định đã được đưa ra.

- Sử dụng kỹ thuật tin học để mô hình hoá và tìm kiếm các tư liệu

trong và ngoài nước. Đặt biệt, thông qua các công cụ tìm kiếm trên Internet, tác giả đã có điều kiện tiếp cận với nhiều tài liệu tiếng nước ngoài một cách hiệu quả.


Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG BỀN VỮNG

1.1. Phát triển công nghiệp và phát triển công nghiệp theo hướng bền vững

1.1.1. Phát triển công nghiệp

1.1.1.1. Công nghiệp và đặc điểm của phát triển công nghiệp

Công nghiệp là thành phần chủ

yếu của khu vực thứ

hai của nền

kinh tế. Đây là khu vực giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, công nghiệp là một bộ phận của nền kinh tế, là lĩnh vực sản xuất hàng hoá vật chất mà sản phẩm được chế tạo, chế biến cho nhu cầu tiêu dùng hoặc phục vụ hoạt động kinh doanh tiếp theo. Đây là hoạt động kinh tế, sản xuất quy mô lớn, được sự hỗ trợ thúc đẩy mạnh mẽ của các tiến bộ công nghệ, khoa học và kỹ thuật [72].

Theo Từ điển tiếng Việt, công nghiệp là toàn thể những hoạt động kinh tế nhằm khai thác các tài nguyên và các nguồn năng lượng, và chuyển biến các nguyên liệu - gốc động vật, thực vật hay khoáng vật thành sản phẩm.

Hai khái niệm trên cho thấy, công nghiệp bao gồm những hoạt động sản xuất, bắt đầu từ hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên, tách đối tượng lao động ra khỏi thiên nhiên và hoạt động chế biến các tài nguyên có được từ khai thác, làm thay đổi hoàn toàn về chất các nguyên liệu ban đầu, biến chúng thành những sản phẩm tương ứng hoặc nguồn nguyên liệu tiếp theo để sản xuất ra các sản phẩm khác phục vụ nhu cầu đa dạng của con người.

Theo giáo trình “Kinh tế và quản lý công nghiệp”, công nghiệp gồm ba loại hoạt động chủ yếu: Khai thác tài nguyên tạo ra nguồn nguyên liệu


nguyên thuỷ; Chế biến sản phẩm của công nghiệp khai thác và của nông nghiệp, ngư nghiệp thành các loại sản phẩm khác nhau nhằm thoả mãn các nhu cầu khác nhau của xã hội; Hoạt động dịch vụ sửa chữa các sản phẩm công nghiệp nhằm khôi phục giá trị sử dụng của chúng [44].

Theo Quyết định số 10/2007/QĐ-TTg ngày 23 tháng 01 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ về Ban hành hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam,

khu vực công nghiệp bao gồm 3 phân ngành cấp 1: Khai khoáng; Công

nghiệp chế biến; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi

nước và điều hòa không khí [64]. Quyết định này là cơ sở cho Bộ Kế

hoạch và Đầu tư, Bộ Công thương, Tổng cục Thống kê, các ban ngành có

liên quan và các địa phương tổ nghiệp trong cả nước.

chức thống kê hoạt động sản xuất công

Nghiên cứu sinh thống nhất với cách phân loại công nghiệp của

Quyết định số

10/2007/QĐ-TTg

và sử

dụng cách phân loại này trong các

phân tích của luận án.

Phát triển công nghiệp là sự gia tăng về số lượng và chất lượng tăng

trưởng công nghiệp gắn với việc chuyển dịch cơ cấu công nghiệp theo

hướng tiến bộ, hợp lý. Quá trình phát triển công nghiệp thường mang những đặc điểm chủ yếu sau:

Thứ nhất, phát triển công nghiệp có trình độ tập trung hoá, chuyên môn hoá và hợp tác hoá rất cao.

Sản xuất công nghiệp, trừ các ngành công nghiệp khai thác khoáng sản, khai thác gỗ, không đòi hỏi những không gian rộng lớn. Tính chất tập

trung thể

hiện rõ

ở việc tập trung tư

liệu sản xuất, nhân công và sản

phẩm. Trên một diện tích nhất định, có thể xây dựng nhiều xí nghiệp, thu hút nhiều lao động và tạo ra một khối lượng lớn sản phẩm. Tập trung hoá sản xuất giúp cho công nghiệp có điều kiện phát huy hiệu quả kinh tế theo


qui mô nhờ giảm chi phí cố định trên một đơn vị sản phẩm sản xuất và tiêu thụ.

Công nghiệp cũng là tập hợp của hệ thống nhiều phân ngành như

khai thác, điện lực, luyện kim, chế tạo máy, hoá chất, thực phẩm… Các ngành này kết hợp chặt chẽ với nhau trong quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm. Trong từng ngành công nghiệp, quy trình sản xuất cũng hết sức chi tiết, chặt chẽ. Chính vì vậy các hình thức chuyên môn hoá, hợp tác hoá có vai trò đặc biệt trong sản xuất công nghiệp. Chuyên môn hoá và hợp tác hoá mang tính toàn cầu hiện nay khiến cho mỗi quốc gia có thể lựa chọn một số loại sản phẩm hay một số khâu nhất định trong sản xuất sản phẩm hoặc một số chi tiết, bộ phận nhất định của sản phẩm... để tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu trong việc sản xuất một loại sản phẩm nhất định.

Thứ hai, phát triển công nghiệp đòi hỏi tiêu thụ các nguồn lực đầu vào

lớn.

Do có thể phát triển với qui mô lớn nên công nghiệp là ngành tiêu thụ

các nguồn lực đầu vào lớn. Tuỳ theo trình độ tập trung hoá sản xuất, đặc điểm sử dụng các nguồn lực đầu vào của các ngành công nghiệp chuyên môn hoá và trình độ công nghệ sản xuất mà mô hình tiêu thụ các nguồn lực đầu vào khác nhau. Những ngành công nghiệp may, giày dép, chế biến nông lâm thuỷ sản là những ngành sử dụng nhiều lao động, tốn ít vốn, trong khi các ngành công nghiệp xi măng, sắt thép, lọc và hoá dầu.... lại là những ngành sử dụng nhiều vốn, ít lao động. Các ngành khai thác và chế biến

các sản phẩm thô là ngành sử dụng nhiều tài nguyên hơn là các ngành

công nghiệp chế biến có độ chế biến sâu hơn. Như vậy, việc lựa chọn

cơ cấu các ngành công nghiệp chuyên môn hoá có ảnh hưởng lớn đến

việc thu hút và sử dụng các nguồn lực sản xuất của quốc gia.

Thứ ba, phát triển công nghiệp gắn liền với quá trình đổi mới nâng


cao trình độ khoa học công nghệ.

Từ việc bắt đầu sản xuất các sản phẩm công nghiệp bằng những

công cụ thủ công và những phương pháp công nghệ đơn giản, người lao

động tích lũy dần kinh nghiệm, cải tiến, sáng chế ra những công cụ và

phương pháp sản xuất có trình độ cao hơn. Đến lượt nó, những cải tiến, sáng chế về công nghệ, kỹ thuật lại thúc đẩy sản xuất công nghiệp phát triển với quy mô lớn và tốc độ nhanh hơn, sản xuất các sản phẩm có trình độ ngày càng tiên tiến hiện đại. Xu hướng chung là trình độ công nghệ của sản xuất công nghiệp luôn không ngừng được đổi mới, nâng lên trình độ hiện đại. Điều này xuất phát từ trình độ phát triển khoa học công nghệ nói chung và trong công nghiệp nói riêng cũng như những yêu cầu của thực tế sản xuất và đời sống xã hội, trực tiếp là yêu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả của sản xuất công nghiệp.

Thứ tư, công nghiệp có thể phát triển trên mọi vùng lãnh thổ.

Các ngành công nghiệp do điều kiện sản xuất ít phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, nên có thể phân bố trên mọi vùng không gian lãnh thổ (ngoại trừ các ngành công nghiệp khai khoáng đòi hỏi cần phải gắn liền với các mỏ khoáng sản được phân bố theo tự nhiên). Đây là điều kiện thuận lợi để trong qui hoạch phát triển công nghiệp có thể giải bài toán phát triển công nghiệp gắn với yêu cầu về hiệu quả kinh tế - xã hội và môi trường.

Thứ năm, phát triển công nghiệp gắn liền với việc phát thải lớn.

Sản xuất công nghiệp luôn luôn là một quá trình bao gồm hai mặt. Một mặt, đó là quá trình khai thác và chế biến các nguồn tài nguyên thiên nhiên, mặt khác, đó cũng là quá trình phát thải. Việc phát thải nảy sinh không chỉ từ bản thân quá trình sản xuất công nghiệp, mà còn từ việc tiêu dùng các sản phẩm công nghiệp.

Thứ sáu, phát triển công nghiệp là quá trình nảy sinh nhiều vấn đề

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 03/10/2022