TRỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
-------***-------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ NHẰM TĂNG CỜNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Phương Thảo
Lớp : Anh 12
Khóa : 43C - KT&KDQT
Giáo viên hướng dẫn : ThS. Trần Thị Ngọc Quyên
Hà Nội – 06/2008
Danh mục các chữ viết tắt
Tiếng Anh | Tiếng Việt | |
AFTA | ASEAN Free Trade Area | Khu vực mậu dịch tự do ASEAN |
ASEAN | Association of Southeast Asian Nations | Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á |
FDI | Foreign direct investment | Đầu tư trực tiếp nước ngoài |
MNC | Multinational Coporation | Công ty đa quốc gia |
SMEs | Small and medium-sized Enterprises | Doanh nghiệp vừa và nhỏ |
CNH-HĐH | Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa | |
CNPT | Công nghiệp phụ trợ | |
DN | Doanh nghiệp | |
ĐTNN | Đầu tư nước ngoài | |
TNHH | Trách nhiệm hữu hạn | |
VN | Việt Nam |
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển công nghiệp phụ trợ nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam - 2
- Khả Năng Cạnh Tranh Của Một Sản Phẩm Phụ Trợ Phải Đáp Ứng Được Ba Yếu Tố: Chất Lượng, Chi Phí Và Vận Chuyển.
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Thu Hút Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
Danh mục bảng biểu
Bảng 1: 20 mặt hàng có kim ngạch xuất – nhập khẩu nhiều nhất của ASEAN
....................................................................................................... 13
Bảng 2: Cơ cấu mua sắm các linh phụ kiện của các nhà lắp ráp xe máy Nhật Bản (tính đến năm 2007) 46
Bảng 3: Số lượng các doanh nghiệp thuộc ngành dệt và may mặc phân loại theo loại hình sở hữu 69
Bảng 4: Đặc thù của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam 69
Bảng 5: Tình hình phát triển của ngành xe máy 71
Bảng 6: Tình hình sản xuất và thực hiện nội địa hóa của Honda VN 72
Bảng 7: Thị phần các nhà lắp ráp xe máy 73
Bảng 8: Danh sách các doanh nghiệp liên doanh sản xuất FDI 74
Bảng 9: Tổng giá trị sản xuất các sản phẩm điện, điện tử của một số nền kinh tế
82
Lời mở đầu
1. Lý do lựa chọn đề tài:
Thuật ngữ “công nghiệp phụ trợ” mặc dù xuất hiện khá lâu tại các quốc gia khác nhưng tại Việt Nam, thuật ngữ này chỉ trở nên phổ biến kể từ năm 2003, khi Chính phủ chỉ đạo các công đoạn chuẩn bị để tiến tới ký kết “Sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản nhằm cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh và tăng cường khả năng cạnh tranh của Việt Nam. Trong đó, hạng mục đầu tiên là nhằm phát triển CNPT ở Việt Nam. Với sự kiện này, CNPT bước đầu đã đạt được một số thành tựu nhất định.
Mặt khác, trong xu thế tự do hóa thương mại và đầu tư hiện nay, tỷ lệ nội địa hóa 100% đã trở nên không thích hợp nữa và chính sách này đang dần được bãi bỏ trước sức ép của toàn cầu hóa. Không một quốc gia nào có thể sản xuất hoàn toàn trong nước theo kiểu kết hợp chiều dọc như một nền kinh tế đóng. Để tồn tại và chiến thắng trong cạnh tranh toàn cầu, ngành công nghiệp của Việt Nam cần phải kết hợp các đầu vào tốt nhất từ khắp nơi trên thế giới. Nhưng câu hỏi then chốt là làm thế nào để để đạt được tỷ lệ nội địa hóa tối ưu – nên nội địa hóa bộ phận nào và nên nhập khẩu bộ phận nào? Hay nói khác đi, ngành CNPT nên được phát triển theo hướng nào để có thể tận dụng được tất cả những lợi thế so sánh của Việt Nam và mang lại hiệu quả cao nhất của ngành này?
Câu hỏi này có mối quan hệ chặt chẽ với hành vi mua sắm của các doanh nghiệp FDI. Ngành CNPT được coi là phát triển khi nó có thể đáp ứng được những yêu cầu khắt khe của các doanh nghiệp FDI này. Hơn nữa, khi xem xét trên quan điểm “động cơ nội địa hóa” của các doanh nghiệp FDI thì các doanh nghiệp này đều thể hiện mong muốn có thể thu mua các linh – phụ kiện nội địa nhằm giảm chi phí sản xuất, chi phí hậu cần, từ đó giảm giá thành sản phẩm, nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm. Do vậy, phát triển CNPT nhằm đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp lắp ráp, đặc biệt là các doanh nghiệp FDI, từ đó tăng cường thu hút FDI là một hướng đi đúng đắn. Xuất phát từ những lí do trên, em
đã chọn đề tài “Phát triển Công nghiệp phụ trợ nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam” làm nội dung nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của nghiên cứu của khóa luận:
Mục tiêu của khóa luận là chỉ ra con đường nào và đề xuất các giải pháp phát triển CNPT nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Để thực hiện được mục tiêu trên, khóa luận cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về ngành CNPT ở Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng phát triển CNPT và khả năng đáp ứng nhu cầu về sản phẩm phụ trợ đối với các doanh nghiệp FDI của Việt Nam trong thời gian vừa qua.
- Trên cơ sở những phân tích trên, đề xuất một số giải pháp phát triển CNPT từ đó tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Ngành CNPT ở Việt Nam trong mối liên hệ với đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu ngành CNPT từ những năm 1990, khi CNPT bắt đầu trở nên phổ biến tại các nước Đông Á.
+ Về không gian: Ngành CNPT ở Việt Nam., cụ thể là ngành sản xuất ô tô, ngành xe máy, ngành điện – điện tử, và ngành dệt may.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để làm rõ những nội dung cơ bản đã đặt ra của khóa luận, trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng một số phương pháp: kết hợp điều tra, thống kê, tổng hợp, so sánh, và dự báo trong quá trình nghiên cứu.
5. Bố cục luận văn:
Luận văn được cấu trúc thành 3 chương với phần mở đầu, kết luận, danh mục bảng biểu, chữ viết tắt, tài liệu tham khảo và mục lục.
Chương I: Tổng quan về ngành CNPT và đầu tư trực tiếp nước ngoài Chương II: Thực trạng phát triển ngành CNPT nhằm tăng cường thu
hút FDI tại Việt Nam
Chương III: Giải pháp phát triển ngành CNPT nhằm thu hút FDI tại Việt Nam trong thời gian tới
Do kiến thức còn nhiều hạn chế, nên trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu, khóa luận không tránh khỏi những sai sót, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến quý báu của thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn Th.S Trần Thị Ngọc Quyên đã tận tình hướng dẫn giúp em hoàn thành luận văn này.
Chương I: Tổng quan ngành công nghiệp phụ trợ và đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1 Tổng quan về ngành công nghiệp phụ trợ
1.1.1 Khái niệm CNPT:
1.1.1.1. Sự ra đời của thuật ngữ CNPT:
“CNPT”-“Supporting Industries” là một thuật ngữ tiếng Anh do người Nhật Bản nghĩ ra và được các doanh nghiệp Nhật Bản sử dụng đầu tiên rất lâu trước khi trở thành một thuật ngữ chính thức. “CNPT” trở nên phổ biến ở Nhật Bản vào giữa những năm của thập niên 1980 khi thuật ngữ này được sử dụng trong một văn bản chính thức là “Sách trắng về hợp tác kinh tế 1985” (“White Paper on Economic Cooperation 1985”) của Bộ Công Nghiệp và Thương mại quốc tế Nhật Bản. Theo đó, thuật ngữ “Công nghiệp phụ trợ” được sử dụng để đề cập đến “các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp vào việc củng cố cơ sở hạ tầng công nghiệp tại các nước châu Á trong trung và dài hạn”, hoặc có thể được đề cập theo một nghĩa khác là “các doanh nghiệp sản xuất các bộ phận hoặc thành phần”. Mục đích của Bộ Công nghiệp và Thương mại Nhật Bản lúc đó là nhằm đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa và sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại các nước ASEAN, đặc biệt là các quốc gia trong ASEAN 4 (In- đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Philipines, và Thái Lan).
Hai năm sau, Bộ Công nghiệp và Thương mại quốc tế Nhật Bản lại một lần nữa giới thiệu thuật ngữ này tới các nước ASEAN thông qua Kế hoạch Phát triển Công nghiệp Châu Á mới. Kế hoạch là sự hợp tác kinh tế toàn diện dựa trên ba lĩnh vực: viện trợ, đầu tư và thương mại. Trong khuôn khổ bản Kế hoạch, Chương trình phát triển CNPT Châu Á đã được công bố trong năm 1993 nhằm giải quyết sự mất cân bằng thương mại, cơ sở hạ tầng còn chưa phát triển, sự thiếu hụt nguồn nhân lực có chuyên môn tại các quốc gia thuộc ASEAN 4 và đẩy mạnh hợp tác công nghiệp giữa Nhật Bản và các quốc gia này. Theo Chương
trình này, phạm vi của ngành CNPT được mở rộng từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ sang thành một ngành công nghiệp sản xuất các sản phẩm trung gian và máy móc, trang thiết bị cho ngành công nghiệp lắp ráp mà không đề cập đến quy mô công ty.
Một câu hỏi được đặt ra là tại sao thuật ngữ này xuất hiện ở Nhật Bản mà không phải là một quốc gia nào khác, và vào giữa những năm 1980 mà không phải là một thời điểm sớm hơn hay muộn hơn. Sự kiện đồng Yên lên giá và nỗ lực phát triển nền tảng công nghiệp của Bộ Công nghiệp và Thương mại quốc tế Nhật Bản nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp Nhật Bản đang hoạt động tại các nước châu Á có thể coi là sự giải đáp cho câu hỏi này. Đồng Yên đã lên giá một cách đột ngột sau Hiệp ước Plaza vào tháng 9 năm 1985, từ mức giá 240 Yên đổi một Đô là Mỹ vào tháng 9 năm 1985 đã lên mức 160 Yên đổi một Đô la Mỹ. Chính điều này đã có ảnh hưởng to lớn lên các doanh nghiệp xuất khẩu Nhật Bản. Đồng Yên lên giá làm cho các doanh nghiệp Nhật Bản giảm xuất khẩu các sản phẩm hoàn thiện và chuyển việc sản xuất sang các quốc gia có mức chi phí lao động thấp hơn. Mặc dù vậy, các nhà máy của Nhật Bản tại nước ngoài phải nhập khẩu bộ phận và thành phần từ các nhà thầu phụ của họ tại Nhật Bản vì các nhà cung cấp các bộ phận và thành phần thiết yếu không có sẵn tại các nước đang phát triển, bao gồm các nước ASEAN 4. Theo đó, thuật ngữ “CNPT” được sử dụng để chỉ sự thiếu hụt của các ngành công nghiệp này tại các quốc gia đó. Có thể nói, sự lên giá của đồng Yên và nỗ lực của Bộ Công nghiệp và Thương mại quốc tế Nhật Bản là điều kiện cần và đủ cho sự ra đời của thuật ngữ CNPT tại Nhật Bản và các nước Châu Á.
1.1.1.2. Khái niệm Công nghiệp phụ trợ:
“Supporting Industries” theo nghĩa tiếng Việt có nghĩa là “Công nghiệp phụ trợ”. Mặc dù thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia, nhưng vẫn còn rất mơ hồ và không có đồng nhất trong định nghĩa. Việc “CNPT” được hiểu theo nghĩa rộng là bao gồm tất cả các ngành công nghiệp sản xuất các thành phần và bộ phận của một sản phẩm hay là được hiểu theo nghĩa hẹp là các ngành