Ngành Công Nghệ Chế Tạo Máy, Chương Trình Đào Tạo Ngành Công Nghệ Chế Tạo Máy

Tìm hiểu những nghiên cứu về chương trình đào tạo xoay quanh lĩnh vực công nghệ, có nhiều công trình nghiên cứu như:

- Nguyễn Duy Phấn nghiên cứu về sự phát triển chương trình đào tạo hệ Cao đẳng trong lĩnh vực cơ khí với đề tài “Nghiên cứu phát triển chương trình đào tạo Cao đẳng Công nghệ cơ khí đáp ứng yêu cầu thị trường lao động tại trường Cao đẳng Công nghiệp Nam Định” [26].

- Trương Minh Trí với công trình nghiên cứu “Xây dựng chương trình đào tạo ngành Công nghệ chế tạo máy theo tiêu chuẩn CDIO” [33].

Vấn đề “Khảo sát đề cương và xây dựng chuẩn đầu ra chương trình Kỹ thuật chế tạo theo mô hình CDIOcủa Phạm Công Bằng, Phan Thị Mai Hà, Nguyễn Hữu Lộc, Trần Nguyễn Hoài An, Thái Thị Thu Hà, Lưu Thanh Tùng, Trần Sĩ Hoài Trung, Lê Ngọc Quỳnh Lam, Huỳnh Ngọc Hiệp tại Khoa Cơ khí trường Đại học Bác Khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh [1]. Bài báo đã trình bày khái quát quá trình khảo sát ý kiến các bên liên quan để đề xuất các mức độ đạt được của từng tiêu chí chuẩn đầu ta của kỹ sư tốt nghiệp ngành Cơ khí, chương trình Kỹ thuật Chế tạo. Theo đó, chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo đến mức độ 4 theo đề cương CDIO sẽ được xây dựng dựa theo thang bậc Bloom. Chúng sẽ đóng vai trò quan trọng như là dữ liệu đầu vào trong việc xây dựng và triển khai khung chương trình đào tạo tích hợp cũng như đề cương chi tiết cho từng môn học cụ thể. Mặc dù chuẩn đầu ra đề cương môn học chi tiết chương trình đào tạo đến mức độ 4 theo đề cương CDIO bước đầu được xây dựng, tuy nhiên chúng vẫn sẽ tiếp tục được hiệu chình và bổ sung trong quá trình triển khai để ngày càng hoàn thiện và làm sao mô hình CDIO phát huy được tác dụng để nâng cao chất lượng đào tạo trong điều kiện thực tế ở các trường Đại học của Việt Nam hiện nay.

Các công trình trên đã đề cập đến vấn đề phát triển chương trình đại học nói chung và phát triển chương trình đào tạo theo những mô hình nhất định. Tuy nhiên còn thiếu những công trình nghiên cứu về ngành chế tạo máy ở trường đại học. Vì vậy chúng tôi chọn nghiên cứu vấn đề “Phát triển chương trình đào tạo ngành Công nghệ chế tạo máy ở trường đại học Kỹ thuật công nghiệp Thái Nguyên”.

Chính vì vậy nên tôi chọn đề tài này làm vấn đề nghiên cứu.

1.2. Các khái niệm công cụ của đề tài

1.2.1. Chương trình, chương trình đào tạo đại học

1.2.1.1. Chương trình

Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng [42], chương trình đươc định nghĩa như sau:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 139 trang tài liệu này.

a) Là “Các mục, các vấn đề, các nhiệm vụ đề ra và được sắp xếp theo trình tự thực hiện trong một thời gian”.

b) Là: “Nội dung kiến thức về một môn học ấn định cho từng lớp, từng cấp trong từng năm”.

Phát triển chương trình đào tạo ngành công nghệ chế tạo máy ở trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp - 3

Thuật ngữ Curriculum trong tiếng Anh đã được nhiều tác giả, nhà khoa học giáo dục chuyển dịch sang tiếng Việt là chương trình đào tạo, chương trình giáo dục, chương trình dạy học… hoặc đôi khi còn gọi là chương trình. Thuật ngữ này trong các tài liệu tiếng anh về giáo dục, chương trình giáo dục trong nhà trường cũng được định nghĩa và giải thích theo nhiều cách khác nhau.

- Theo Phenix (1962), chương trình bao gồm toàn bộ những kiến thức do các môn học cung cấp.

- White (1995) cho rằng: Chương trình là một kế hoạch đào tạo phản ánh các mục tiêu giáo dục, đào tạo mà nhà trường theo đuổi. Bản kế hoạch đó cho biết nội dung và phương pháp dạy và học cần thiết đẻ đạt được mục tiêu đề ra.

- Theo tác giả Nguyễn Hữu Trí - Viện Khoa học giáo dục “Chương trình được định nghĩa là một loạt các hoạt động được thực hiện với sự hỗ trợ của các nguồn lực nhằm đạt được những mục tiêu cụ thể cho các nhóm khách hàng đã được định sẵn” [32].

- “Chương trình giáo dục là sự trình bày có hệ thống kế hoạch tổng thể các hoạt động giáo dục trong một thời gian xác định, trong đó nêu lên các mục tiêu học tập mà người học cần đạt được. Đồng thời xác định rõ phạm vi, mức độ, nội dung học tập, các phương pháp, phương tiện, cách thức tổ chức, đánh giá kết quả học tập… nhằm đạt được mục tiêu học tập đã đề ra” [32].

Nhiều tác giả đưa ra định nghĩa về chương trình của riêng họ với sự nhấn mạnh các ý nghĩa của từ này ở mức khác nhau. Việc quan niệm như thế nào về chương trình giáo dục không phải đơn thuần là vấn đề định nghĩa về chương trình mà nó thể hiện rõ quan điểm của mỗi người về giáo dục.

Từ những cách hiểu trên theo chúng tôi chương trình nói chung, chương trình giáo dục nói riêng đều là những hoạt động được thực hiện trong một khoảng thời gian xác định, nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra.

1.2.1.2. Chương trình đào tạo đại học

Chương trình đào tạo đại học thể hiện trình độ đào tạo; đối tượng đào tạo, điều kiện nhập học và điều kiện tốt nghiệp; mục tiêu đào tạo, chuẩn kiến thức, kỹ năng của người học khi tốt nghiệp; khối lượng kiến thức lý thuyết, thực hành, thực tập; kế hoạch đào tạo theo thời gian thiết kế; phương pháp và hình thức đào tạo; cách thức đánh giá kết quả học tập; các điều kiện thực hiện chương trình.

Chương trình đào tạo đại học được cấu trúc từ các học phần thuộc hai khối kiến thức: giáo dục đại cương và giáo dục chuyên nghiệp.

Chương trình đào tạo đại học còn được xem xét ở đây tương đương với thuật ngữ curriculum trong tiếng Anh. Có rất nhiều quan niệm khác nhau về chương trình đào tạo ở nước ta và ngay cả trong các văn bản tiếng Anh.

- Theo từ điển Giáo dục học, khái niệm chương trình đào tạo được hiểu là: ‘‘Văn bản chính thức quy định mục đích, mục tiêu,yêu cầu, nội dung kiến thức và kỹ năng, cấu trúc tổng thể các bộ môn, kế hoạch lên lớp và thực tập theo từng năm học, tỷ lệ giữa các bộ môn, giữa lý thuyết và thực hành, quy định phương thức, phương pháp, phương tiện, cơ sở vật chất, chứng chỉ và văn bằng tốt nghiệp của cơ sở giáo dục và đào tạo” [35].

Theo Wentling (1993): ‘‘Chương trình đào tạo (Program of Training) là một bản thiết kế tổng thể cho một hoạt động đào tạo (khoá đào tạo) cho biết toàn bộ nội dung cần đào tạo, chỉ rõ những gì có thể trông đợi ở người học sau khoá đào tạo, phác thảo ra quy trình cần thiết để thực hiện nội dung đào tạo, các phương pháp đào tạo và cách thức kiểm tra,đánh giá kết quả học tập và tất cả những cái đó được sắp xếp theo một thời gian biểu chặt chẽ” [43].

Theo Tyler (1949) cho rằng: Chương trình đào tạo đại học về cấu trúc phải có 4 phần cơ bản: [dẫn theo 2]

1. Mục tiêu đào tạo.

2. Nội dung đào tạo.

3. Phương pháp hay quy trình đào tạo.

4. Cách đánh giá kết quả đào tạo.

Văn bản chương trình giáo dục phổ thông của Hàn [40] bao gồm 4 thành phần cơ bản sau:

1. Định hướng thiết kế chương trình.

2. Mục tiêu giáo dục của các bậc, cấp học phỏ thông.

3. Các môn, phần học và phân phối thời gian (nội dung, kế hoạch dạy học).

4. Chỉ dẫn về tổ chức thực hiện và đánh giá chương trình.

Trên cơ sở chương trình giáo dục chung (hoặc chương trình khung) được quy định bởi các cơ quan quản lý giáo dục các cơ sở giáo dục tổ chức xây dựng các chương trình chi tiết hay còn gọi là chương trình đào tạo. Chương trình đào tạo đại học (Curriculum) là bản thiết kế chi tiết quá trình giảng dạy trong một khoá đào tạo phản ánh cụ thể mục tiêu, nội dung, cấu trúc, trình tự cách thức tổ chức thực hiện và kiểm tra đánh giá các hoạt động giảng dạy cho toàn khoá đào tạo và cho từng môn học, phần học, chương, mục và bài giảng. Chương trình đào tạo do các cơ sở đào tạo xây dựng trên cơ sở chương trình đào tạo đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Theo tác giả Phạm Thị Huyền, chương trình đào tạo đại học được hiểu theo cách tiếp cận “đào tạo theo nhu cầu xã hội”. Khi đó, chương trình đào tạo đại học có thể được định nghĩa là một tập hợp tất cả các hoạt động gắn kết với nhau nhằm đạt đến mục tiêu giáo dục của nhà trường, bao gồm các yếu tố đầu vào để thực hiện chương trình đào tạo đại học và mục tiêu đào tạo trên cơ sở kết quả đầu ra, để phát triển khả năng của người được đào tạo, giúp họ có được kiến thức, kỹ năng cũng như cải thiện năng lực tư duy trong thực hiện những yêu cầu công việc ở trình độ được đào tạo [18].

Như vậy chương trình đào tạo đại học hay chương trình giảng dạy không chỉ phản ánh nội dung đào tạo mà là một văn bản hay bản thiết kế thể hiện tổng thể các thành phần của quá trình đào tạo, điều kiện, cách thức, quy trình tổ chức, đánh giá các hoạt động đào tạo để đạt được mục tiêu đào tạo.

Theo Luật giáo dục 2005 chương trình giáo dục được quy định theo điều 6 Chương I là: ‘‘Chương trình giáo dục thể hiện mục tiêu giáo dục, quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với các môn học ở mỗi lớp, mỗi cấp học hay trình độ đào tạo” [22].

"Chương trình khung cho từng ngành đào tạo đối với trình độ cao đẳng, trình độ đại học bao gồm cơ cấu nội dung các môn học, thời lượng đào tạo, tỷ lệ phân bổ thời gian giữa các môn học, giữa lý thuyết và thực hành, thực tập. Căn cứ vào chương trình khung, trường cao đẳng, trường đại học xác định chương trình đào tạo của trường mình" (Điều 41- Luật Giáo dục 2005) [22].

Như vậy, quan niệm về chương trình đào tạo đại học không đơn giản là cách định nghĩa mà nó thể hiện rất rõ quan điểm về đào tạo.

Từ đó có thể hiểu: Chương trình đào tạo đại học được cấu trúc từ các học phần thuộc hai khối kiến thức: giáo dục đại cương và giáo dục chuyên nghiệp. Trong đó thể hiện trình độ đào tạo; đối tượng đào tạo, mục tiêu đào tạo, nội dung đào tạo, kế hoạch đào tạo theo thời gian thiết kế; phương pháp và hình thức đào tạo; cách thức đánh giá kết quả học tập; các điều kiện thực hiện chương trình... nhằm thực hiện mục tiêu của quá trình Giáo dục và đào tạo.

1.2.2. Phát triển, phát triển chương trình đào tạo

1.2.2.1. Phát triển

Trong thế giới khách quan, mọi sự vật không ngừng vận động nằm trong khuynh hướng chung là sự phát triển. Các sự vật hiện tượng đó đều có mối liên hệ phổ biến và vận động, phát triển không ngừng. Sự tồn tại, liên hệ, vận động và phát triển của sự vật hiện tượng bao giờ cũng xảy ra trong những hoàn cảnh cụ thể, trong không gian và thời gian xác định. Song cùng một sự vật nhưng nếu tồn tại trong những điều kiện không gian, thời gian khác nhau thì tính chất của mối liên hệ và sự phát triển của nó cũng khác nhau.

Vậy phát triển là gì? Có nhiều quan điểm khác nhau về sự phát triển:

- Phát triển được định nghĩa khái quát trong từ điển Oxford là: “Sự gia tăng dần của một sự vật theo hướng tiến bộ hơn, mạnh hơn…” [36].

- Trong Từ điển Bách khoa của Việt Nam, phát triển được định nghĩa là: “Phạm trù triết học chỉ ra tính chất của những biến đổi đang diễn ra trong thế giới…” [34].

Phát triển bao hàm sự tăng trưởng về kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng

kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa - giáo dục, phát triển toàn diện con người, bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm ổn định chính trị và giữ vững an ninh - quốc phòng của Tổ quốc.

Như vậy, khái niệm phát triển phải bao gồm các nhân tố kinh tế và xã hội, cũng như các giá trị đạo đức và văn hóa, quy định sự nảy nở và phẩm giá con người trong xã hội. Nếu như con người là nguồn lực của phát triển, nếu như con người vừa là tác nhân lại vừa là người được hưởng, thì con người phải được coi chủ yếu như là sự biện minh và là mục đích của sự phát triển.

Trên cơ sở tìm hiểu một số quan niệm về phát triển như trên, ta thấy khái niệm phát triển có nội hàm và ngoại diên của nó:

+ Nội hàm: Phát triển tạo ra cái mới hoặc hoàn thiện, làm thay đổi về căn bản cái đã có để có cái tốt hơn, tiến bộ hơn. Cái mới, cái được hoàn thiện (Tức là sự phát triển) có thể có hai khía cạnh chính: phát triển về số lượng và phát triển về chất lượng.

+ Ngoại diên: Là tất cả hoạt động tìm kiếm.

Như vậy: Phát triển chỉ sự trưởng thành, lớn hơn về chất và lượng, nói cách khác, phát triển là tất cả các hoạt động tìm kiếm nhằm tạo ra cái mới, có thể làm tăng về số lượng, làm cho tốt hơn về chất lượng hoặc cả hai.

1.2.2.2. Phát triển chương trình đào tạo

Cũng giống như khái niệm chương trình đào tạo, khái niệm phát triển chương trình đào tạo có nhiều cách hiểu, có nhiều mô hình khác nhau trong phát triển chương trình đào tạo. Việc đưa ra khái niệm phát triển chương trình đào tạo sẽ chi phối đến quan điểm tiếp cận khi thực hiện công tác phát triển chương trình đào tạo đại học.

Trong phạm vi đề tài này chúng tôi quan niệm: Phát triển chương trình đào tạo là quá trình liên tục làm hoàn thiện chương trình đào tạo.

Như vậy, theo quan niệm này, phát triển chương trình đào tạo bao hàm cả việc biên soạn hay xây dựng một chương trình mới hoặc cải tiến một chương trình đào tạo hiện có. Bên cạnh đó, chúng ta sử dụng thuật ngữ “phát triển” chương trình đào tạo thay cho từ “xây dựng”, “thiết kế” hay “biên soạn” chương trình đào tạo, vì “phát triển” bao hàm cả sự thay đổi, bổ sung liên tục. Phát triển là một chu trình mà điểm kết thúc sẽ lại là điểm khởi đầu, kết quả là một chương trình đào tạo mới và ngày

càng tốt hơn nữa. Các khái niệm khác chỉ có ý nghĩa là một quá trình và kết quả dừng lại khi chúng ta có một chương trình mới.

1.2.3. Ngành Công nghệ chế tạo máy, chương trình đào tạo ngành công nghệ chế tạo máy

1.2.3.1. Ngành Công nghệ chế tạo máy

Công nghệ chế tạo máy là một lĩnh vực khoa học kỹ thuật có nhiệm vụ nghiên cứu, thiết kế và tổ chức thực hiện quá trình chế tạo sản phẩm cơ khí đạt các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật nhất định trong điều kiện quy mô sản xuất cụ thể. Đây được coi là trái tim của quá trình công nghiệp hóa và đang có tốc độ phát triển nhanh chóng. Trong tương lai, nhu cầu nhân lực ngành này sẽ tăng cao, tạo nhiều cơ hội việc làm cho người học. Kỹ sư chế tạo máy có thể đảm nhận việc thiết kế, lên bản vẽ, lắp đặt hoặc gia công máy móc, thiết bị tại các nhà máy, công trình, công ty cơ khí.

Ngành Công nghệ chế tạo máy còn có tên gọi phổ biến gần tương đương là ngành cơ khí chế tạo máy, tên ngành tiếng anh tương đương là Manufacturing Engineering. Ngành có vai trò tham gia trong hoạt động sản xuất thực tế, nơi các kỹ sư công nghệ chế tạo máy tham gia việc vận hành toàn bộ quy trình chế tạo ra các sản phẩm (cơ khí), đồng thời tối ưu hóa quá trình sản xuất đảm bảo tính hiệu quả, tính kinh tế nhất có thể. Một mặt công nghệ chế tạo máy là lý thuyết phục vụ cho công việc chuẩn bị sản xuất và tổ chức sản xuất có hiệu quả nhất. Mặt khác nó là môn học nghiên cứu quá trình hình thành các bề mặt chi tiết và lắp ráp chúng thành sản phẩm

Mục đích cuối cùng của Công nghệ chế tạo máy là nhằm đạt được: chất lượng sản phẩm, năng suất lao động và hiệu quả kinh tế cao.

1.2.3.2. Chương trình đào tạo ngành Công nghệ chế tạo máy

Chương trình đào tạo ngành Công nghệ Chế tạo máy trình độ đại học nhằm đào tạo kỹ sư cơ khí chế tạo máy có kiến thức khoa học cơ bản, kiến thức cơ sở và chuyên ngành về cơ khí chế tạo máy, có khả năng phân tích, giải quyết vấn đề và đánh giá các giải pháp, có năng lực xây dựng kế hoạch, lập dự án phát triển sản xuất, tham gia tổ chức, điều hành và chỉ đạo sản xuất, có kỹ năng giao tiếp và làm việc nhóm, có thái độ nghề nghiệp phù hợp đáp ứng được các yêu cầu phát triển của ngành và của xã hội [25, tr.9].

Chương trình đào tạo ngành Công nghệ Chế tạo máy, trình độ đại học- Khối trường kỹ thuật được thiết kế với yêu cầu tăng tính chuyên sâu về môn học, đảm bảo sự cân đối giữa lý thuyết với thực hành và đặc biệt là gắn kết với thực tiễn sản xuất, thực tế xã hội. Chương trình được cấu trúc từ các học phần thuộc hai khối kiến thức: giáo dục đại cương và giáo dục chuyên nghiệp. Chương trình giáo dục đại học ngành Công nghệ Chế tạo máy cung cấp cho sinh viên môi trường và những hoạt động giáo dục để họ hình thành và phát triển nhân cách, đạo đức, tri thức, các kĩ năng cơ bản cần thiết nhằm đạt được thành công về nghề nghiệp trong lĩnh vực chuyên môn, đáp ứng nhu cầu xã hội. Công nghệ Chế tạo máy là một ngành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phạm vi sử dụng của ngành Công nghệ Chế tạo máy rất rộng rãi. Từ những con tàu vũ trụ cho đến máy vi tính, các đồ dùng điện tử... tất cả những sản này đều được chế tạo ra nhờ các máy móc khác nhau. Ngành Công nghệ Chế tạo máy là nền tảng của ngành công nghiệp chế tạo máy. Trong lĩnh vực chế tạo máy công cụ thì Công nghệ Chế tạo máy đóng vai trò rất quan trọng. Nó nghiên cứu các quy luật tác động trong quá trình chế tạo sản phẩm nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và giảm chi phí gia công.

Cấu trúc chương trình đào tạo được tổ chức thành hai phần: Khối kiến thức đại cương, khối kiến thức cơ sở kỹ thuật, khối kiến thức cơ sở ngành và khối kiến thức chuyên ngành.

1.2.4. Phát triển chương trình đào tạo ngành công nghệ chế tạo máy

Phát triển chương trình đào tạo là một quá trình liên tục nhằm hoàn thiện không ngừng chương trình đào tạo. Theo quan điểm này chương trình đào tạo là một thực thể không phải được thiết kế một lần và dùng cho mãi mãi, mà được phát triển, bổ sung, hoàn thiện tùy theo sự thay đổi của trình độ phát triển kinh tế - xã hội, của thành tựu khoa học - kỹ thuật và công nghệ, và cũng là theo yêu cầu của thị trường sử dụng lao động. Nói cách khác, một khi mục tiêu đào tạo của nền giáo dục quốc dân thay đổi để đáp ứng nhu cầu xã hội, thì chương trình giáo dục cũng phải thay đổi theo, mà đây lại là quá trình diễn ra liên tục nên chương trình giáo dục cũng phải được không ngừng phát triển và hoàn thiện.

Phát triển chương trình đào tạo đại học nói chung, ngành công nghệ chế tạo máy nói riêng sẽ góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ quản lý, giảng viên đối với

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 19/05/2022