du lịch Thái Lan kết hợp với các cơ sở sản xuất để "móc túi" khách vô cùng nghệ thuật. Điển hình như du khách sẽ được đi tham quan viện nghiên cứu nọc độc rắn ở Bangkok. Sau khi xem màn biểu diễn "hôn" rắn rùng rợn của nghệ nhân Thái, du khách sẽ được đưa vào phòng nghe thuyết trình về các dược liệu sản xuất từ rắn. Khách nước nào sẽ có người thuyết trình bằng tiếng nước đó, dược sĩ mà giới thiệu sản phẩm cực kỳ chuyên nghiệp. Tuy giá khá cao trung bình 100USD/ lọ 80 viên, nhưng không ít du khách sẵn sàng mua.
c. Cơ chế lờ của chính phủ.
Thành phố Pattaya là điển hình cho cơ chế này, nó nổi tiếng với 4S: sun, sea, sand và sex (lần lượt là nắng, biển, cát và sex). Có trung tâm hành chính riêng, thành phố gần như một khu tự trị. Được chính phủ cho phép, họ tổ chức rất nhiều chương trình giải trí có yếu tố sexy để thu hút du khách. Sau một ngày dài vui chơi sẽ thật sai lầm nếu bạn vùi mình trong khách sạn bởi cuộc sống về đêm mới là khuôn mặt Pattaya đầy màu sắc. Và tại đây có 3 hoạt động nóng bỏng công khai là: show các diễn viên chuyển giới biểu diễn (Tiffany Show hay Alcazar Show), Sexy Show với các show người mẫu, show khí công, show do các diễn viên đến từ Châu Âu và còn lại là các quán bar vũ trường trên khu phố đi bộ.
1.6.3. Bài học đối với du lịch Việt Nam
Tầm nhìn chiến lược đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển du lịch. Kinh nghiệm từ Singapore cho thấy họ đã có chiến lược phát triển ngành du lịch từ nhưng năm 1965 và đã có những bước nhảy thần kỳ. Và đó là bài học vô cùng quan trọng để Việt Nam học hỏi tích lỹ kinh nghiệm. Trong giai đoạn trước mắt, Việt Nam cần lưu ý đến những vấn đề sau:
a) Liên kết với các điểm du lịch lân cận và các thành phố lớn
Muốn phát triển du lịch thì không thể đơn lẻ, cần có sự liên kết giữa các địa phương, các vùng miền để tạo thành các tour du lịch độc đáo thu hút du khách. Hơn nữa, cũng cần có sự liên kết chặt chẽ giữa các ngành nghề phục
vụ cho du lịch như nông nghiệp, thương mại,… nhằm mục đích giữ chân được du khách càng lâu càng tốt, có như vậy mới tăng doanh thu cho ngành du lịch, góp phần cải thiện đời sống cho người dân địa phương.
Có thể bạn quan tâm!
- Sơ Đồ Chuỗi Giá Trị Theo Cách Tiếp Cận Của Gtz
- Ý Nghĩa Của Việc Nghiên Cứu Chuỗi Giá Trị Trong Ngành Du Lịch
- Những Kinh Nghiệm Của Nước Ngoài Và Bài Học Cho Du Lịch Việt Nam
- Phát triển chuỗi giá trị du lịch tỉnh Ninh Bình - 8
- Đánh Giá Mô Hình Chuỗi Giá Trị Du Lịch Tỉnh Ninh Bình
- Cơ Sở Lưu Trú Tỉnh Ninh Bình Từ Năm 2012 Đến Năm 2014
Xem toàn bộ 127 trang tài liệu này.
b) Liên kết phân chia lợi ích giữa chuỗi dịch vụ
Để phát triển du lịch, điều quan trọng đầu tiên là cần phải thu hút được du khách đến với Việt Nam, việc đầu tiên cần làm là tìm cách giảm giá các tour, kết hợp với thương mại để “móc túi” du khách bù đắp lại phần giảm giá tour.
c) Đưa ra các chính sách quản lý phù hợp nhằm tạo ra được sự thu hút trong khuôn khổ pháp lý cho phép
Tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước về du lịch đủ mạnh từ trung ương đến địa phương tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ của ngành kinh tế mũi nhọn. Thể chế hóa chủ trương chính sách của Đảng về ưu tiên phát triển du lịch bằng việc hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp luật về du lịch trong điều kiện mới. Phối hợp với các cấp, các ngành xây dựng các chính sách khuyến khích phát triển du lịch, tạo điều kiện thuận lợi cho khách vào Việt Nam, phù hợp thông lệ quốc tế.
d) Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ du lịch
Phát triển nguồn nhân lực và nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ trong du lịch, con người là yếu tố hàng đầu của sự nghiệp phát triển du lịch. Nghiên cứu phát triển công nghệ du lịch, đặc biệt là ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý Nhà nước và kinh doanh du lịch, khuyến khích đầu tư công nghệ mới trong các lĩnh vực lữ hành, vận chuyển, khách sạn, tuyên truyền quảng bá nhằm nâng cao vị trí của du lịch Việt Nam trong khu vực và quốc tế.
TÓM TẮT CHƯƠNG 1
Chương 1 của luận văn tác giả muốn đề cập và giới thiệu những vấn đề cơ bản về hoạt động du lịch, qua đây người đọc có thể phần nào tổng quát được những khái niệm cơ bản về du lịch, các loại hình du lịch và những khái niệm cơ bản về chuỗi giá trị cũng như tìm hiểu sâu hơn về mô hình chuỗi giá trị đối với du lịch là như thế nào.
Du lịch là một ngành công nghiệp không khói và là một trong những ngành mũi nhọn thúc đẩy phát triển kinh tế. Và để ngành này phát triển cũng đòi hòi nhiều yếu tố và không tránh khỏi những khó khăn, thách thức.
Bên cạnh việc nắm bắt những vấn đề cơ bản về hoạt động du lịch và những kinh nghiệm quý báu từ các nước phát triển khác, từ đó chúng ta sẽ có cái nhìn nhận đúng đắn cho việc đóng góp vào sự phát triển chung của du lịch Ninh Bình nói riêng và du lịch Việt Nam nói chung.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TỈNH NINH BÌNH
GIAI ĐOẠN 2012 - 2014
2.1. Tiềm năng, các nguồn lực và tình hình phát triển du lịch tỉnh Ninh Bình
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
- Vị trí địa lý: Ninh Bình có diện tích 1.390,11 km², nằm ở cực nam Đồng bằng Bắc Bộ, có tọa độ địa lý từ 19050’ đến 20027’ vĩ độ Bắc và 105032’ đến 106033 kinh độ Đông. Về mặt hành chính, Ninh Bình có 8 đơn vị hành chính bao gồm: thành phố Ninh Bình - là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội của tỉnh; thị xã Tam Điệp và 6 huyện: Yên Mô, Yên Khánh, Kim Sơn, Gia Viễn, Hoa Lư và Nho Quan. Ninh Bình cách Hà Nội 93 km về phía Nam trên trục quốc lộ 1A và đường sắt xuyên suốt Bắc - Nam, cả hai trục đường ôtô và đường sắt chạy xuyên suốt Bắc - Nam đều qua đây (với hai nút giao thông chính là thành phố Ninh Bình và thị xã Tam Điệp).
Hình 2.1: Bản đồ du lịch tỉnh Ninh Bình
(Nguồn: Sở Văn hóa, thể thao và Du lịch Ninh Bình)
- Địa hình: Ninh Bình có địa hình đa dạng, vừa có đồng bằng, đồi núi, nửa đồi núi và vùng ven biển. Sự phân hóa về địa hình, đặc biệt là sự xuất hiện của dạng địa hình đặc biệt là hiện tượng phong hóa đặc trưng của những miền núi đá vôi bị nước chảy xói mòn đã làm cho địa hình trở thành tài nguyên quan trọng cho Ninh Bình trong phát triển các loại hình du lịch. Điển hình trong số đó phải kể đến khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Vân Long, khu du lịch Tam Cốc - Bích Động, khu du lịch sinh thái Tràng An...
- Khí hậu: Ninh Bình thuộc vùng tiểu khí hậu của đồng bằng sông Hồng, ngoài ảnh hưởng sâu sắc của gió mùa Đông Bắc, Đông Nam, còn chịu ảnh hưởng của khí hậu ven biển, khí hậu rừng núi và nửa rừng núi. Thời tiết trong năm chia làm hai mùa khá rõ rệt: mùa khô từ tháng 11 - 12 năm trước đến tháng 4 năm sau; mùa mưa từ tháng 5 - tháng 10. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 24,20C. Số giờ nắng trung bình mỗi tháng là 117,3 giờ. Tổng nhiệt độ năm đạt tới trị số trên 8.5000C. Độ ẩm trung bình hàng năm là 83% và có sự chênh lệch không nhiều giữa các tháng trong năm: tháng 2 cao nhất là 89%, tháng 11 thấp nhất là 75%; giữa các vùng chênh lệch nhau trên dưới 1%. Lượng mưa rơi trung bình toàn tỉnh đạt từ 1.860 - 1.950 mm, phân bố tương đối đồng đều trên toàn bộ lãnh thổ của tỉnh. Trung bình một năm có 125 - 127 ngày mưa. Lượng mưa trung bình mỗi tháng là 238,8 mm; tháng 9 cao nhất là 816 mm, tháng 1 thấp nhất là 8,5 mm. Lượng mưa phân bổ không đều trong năm, thường tập trung vào các tháng từ tháng 5 đến tháng 10 và chiếm từ 86 - 91% tổng lượng mưa trong năm. Như vậy có thể thấy, thời gian thuận lợi nhất cho hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh kéo dài từ tháng 2 đến tháng 5 và từ tháng 8 đến tháng 12 hàng năm. Đây là thời gian không quá khô nóng, cũng như không có mưa nhiều.
- Thuỷ văn: Ninh Bình có nhiều sông và đầm hồ. Hàng năm, hệ thống sông ngòi ở Ninh Bình được nuôi dưỡng bằng nguồn nước mưa dồi
dào, tạo nên lượng dòng chảy tương đối phong phú (khoảng 30l/s/km2). Mật độ mạng lưới sông ngòi khoảng 0,6-0,9 km/km2.
- Sinh vật: Thảm thực vật rừng phong phú, tập trung ở Vườn quốc gia Cúc Phương. Rừng Cúc Phương thuộc loại rừng mưa nhiệt đới điển hình với cấu trúc thảm thực vật nhiều tầng (tới 5 tầng, tầng vượt tán có những cây cao 40-50m), phong phú về thành phần loài. Đây còn là nơi gặp gỡ của các loài thực vật dễ di thực từ vùng nhiệt đới khô như Ấn Độ, Miến Điện tới. Một số loài thực vật điển hình là chò xanh (Terminalia Mgriocarpa), cây lê (brassaiopsis cucphalobgensis thuộc họ Araliacsae), cây chân chim (Schefflera globulihera thuộc họ Araliacsae). Động vật ở Cúc Phương cũng rất phong phú. Hiện đã phát hiện được 233 loài động vật có xương sống, nhiều loài chim và 24 bộ côn trùng trong số 30 bộ côn trùng thường gặp ở nước ta. Đặc biệt có những loại quý hiếm như Phượng hoàng đất ở Tràng An, Vọoc mông trắng ở Vân Long...
- Đất đai: Ninh Bình có tổng diện tích tự nhiên là 139.011 ha, trong đó đất cho sản xuất nông nghiệp là 61.959 ha (chiếm 44,57% diện tích tự nhiên), đất lâm nghiệp 27.644 ha (chiếm 19,89% diện tích tự nhiên), đất chuyên dùng 15.197 ha (chiếm 10,93% diện tích tự nhiên), đất khu dân cư
5.346 ha (chiếm 3,85% diện tích tự nhiên) và đất chưa sử dụng 17.094 ha (chiếm 12,3% diện tích tự nhiên).
- Tài nguyên khoáng sản: Đá vôi với trữ lượng hàng chục tỉ m3, chất lượng tốt, đất sét, tài nguyên nước khoáng,... các tài nguyên khác như cát xây dựng, sét gốm sứ, sét xi măng, gạch ngói trữ lượng nhỏ, phân bố rải rác ven vùng đồi núi thấp ven thị xã Tam Điệp, Gia Viễn, Yên Mô. Bên cạnh đó, Ninh Bình còn nằm gần các nguồn năng lượng lớn của quốc gia ở miền Bắc như: bể than Quảng Ninh; thuỷ điện Hoà Bình; Nhiệt điện Phả Lại... giúp cho Ninh Bình thoả mãn các nhu cầu về than, điện phục vụ cho phát triển sản
xuất cũng như nhu cầu dân sinh.
2.1.2. Điều kiện dân cư, kinh tế - xã hội
- Đặc điểm dân cư, dân tộc: Dân số Ninh Bình hiện có 926.995 người (năm 2013), chiếm 4,54% dân số vùng đồng bằng sông Hồng và 1,03% dân số của cả nước. Trong tổng dân số của tỉnh có 49,9% là nam, 50,1% là nữ; dân số thành thị chiếm 19,48%, dân số nông thôn chiếm 80,52%. Mật độ dân số chung toàn tỉnh là 673 người/km2, cao nhất là TP.Ninh Bình 2.467 người/km2 và huyện Yên Khánh 987 người/km2; thấp nhấp là huyện Nho Quan 331 người/km2. tỉ lệ tăng dân số tự nhiên những năm gần đây có xu hướng giảm nhưng vẫn ở mức cao, năm 2000 là 1,02% đến năm 2013 giảm xuống còn 0,672% (mức bình quân cả nước là 1,2%).
Cộng đồng các dân tộc đang sống trong tỉnh gồm có: dân tộc Kinh trên 98,2% ; dân tộc Mường chiếm 1,7% ; các dân tộc như Tày, Nùng, Thái, Hoa, Hmong, Dao,... mỗi dân tộc có từ trên một chục đến hơn một trăm người.
- Điều kiện kinh tế - xã hội : Trong những năm gần đây kinh tế Ninh Bình liên tục tăng trưởng ở mức 2 con số, năm 2012 xếp thứ 11/63, năm 2013 xếp thứ 21/63, năm 2014 xếp thứ 28/63. Ninh Bình là một trong những tỉnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài lớn của Việt Nam; thu ngân sách năm 2013 đạt 2.825 tỉ đồng, là tỉnh thứ 26/64 đạt mức thu trên 1000 tỷ. Trong khi diện tích và dân số tỉnh chỉ đứng thứ 56/64 và 43/64.
Ninh Bình có tiềm năng và thế mạnh phát triển công nghiệp vật liệu xây dựng với số lượng nhà máy sản xuất xi măng nhiều trong đó nổi bật là các doanh nghiệp xi măng The Vissai, xi măng Hệ Dưỡng (công suất 3,6 triệu tấn/năm), xi măng Tam Điệp, xi măng Phú Sơn, xi măng Duyên Hà (công suất 0,6 triệu tấn/năm), xi măng Hướng Dương (công suất 2 triệu tấn/năm).v.v. Sản phẩm chủ lực của địa phương là xi măng, đá, thép, vôi, gạch,…
Tính đến năm 2014, Ninh Bình có 7 khu công nghiệp, gồm: Gián Khẩu, Ninh Phúc, Tam Điệp, Phúc Sơn, Sơn Hà, Xích Thổ và Khánh Cư, 22 cụm công nghiệp với diện tích 880 ha. Nghề thủ công truyền thống địa phương có: thêu ren ở Hoa Lư, dệt chiếu và làm hàng cói mỹ nghệ ở Kim Sơn, Yên Khánh..., đan lát mây tre ở Gia Viễn, Nho Quan, sản xuất đồ đá mỹ nghệ ở Ninh Vân (Hoa Lư). Về thu hút đầu tư, tỉnh hiện có những dự án công nghiệp với mức đầu tư lớn đang được triển khai xây dựng như: Nhà máy phân đạm công suất 56 vạn tấn/năm, nhà máy sản xuất phụ tùng động cơ tàu thuỷ Vinashin với vốn đầu tư 1.200 tỉ đồng, nhà máy sản xuất sô đa đầu tư 1.300 tỉ, nhà máy sản xuất phôi thép Ninh Bình đầu tư 560 tỉ đồng.
Ninh Bình có lợi thế phát triển ngành nông nghiệp đa dạng nhiều thành phần. Các vùng chuyên canh nông nghiệp chính của tỉnh: vùng Đồng Giao Tam Điệp chuyên trồng cây công nghiệp như cây dứa thơm; vùng Kim Sơn trồng cây cói làm chiếu, hàng mỹ nghệ, nuôi tôm sú, hải sản; vùng Ninh Phúc, Ninh Sơn trồng hoa và rau sạch. Lĩnh vực nuôi thuỷ sản phát triển khá ổn định, nhất là ở khu vực nuôi thả thuỷ sản nước ngọt.
Nguồn lao động của Ninh Bình khá đông đảo, được đào tạo tương đối cơ bản; ngày càng được bổ sung lực lượng lao động trẻ có kiến thức văn hoá và trình độ chuyên môn, có khả năng tiếp thu các tiến bộ khoa học kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội trên địa bàn của tỉnh.
Giáo dục và đào tạo đã được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS từ tháng 12/2002; 100% số xã, phường, thị trấn trong tỉnh có trường học cao tầng, kiên cố.
Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và khối đại đoàn kết dân tộc được giữ vững và ổn định; hệ thống Đảng, Chính quyền, các Đoàn thể