Kiến Nghị Hoàn Thiện Quy Định Của Pháp Luật Về Hợp Đồng Cho Vay


HĐCV. Chẳng hạn: Quyết định Giám đốc thẩm số 15/2008/KDTM-GĐT ngày 25/12/2008 giải quyết vụ án tranh chấp HĐTD, của Tòa án nhân dân tối cao đã tuyên xử như sau: “trả lại đơn khởi kiện cho Ngân hàng ĐA với lý do thời hiệu khởi kiện đã hết là không đúng pháp luật, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Nhưng ở vụ án này, tòa án mới chỉ nhìn nhận sự việc dưới góc độ quan hệ hợp đồng được các bên liên tục thực hiện, từ đó nêu lý do “thời hiệu khởi kiện của vụ án này chưa hết” là chưa lột tả hết ý nghĩa, chưa vận dụng đầy đủ các quy định về đặc thù cho vay trong ngân hàng.

Từ những phân tích, theo tác giả, giới hạn về thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp được pháp luật đặt ra với mục đích bảo vệ sự ổn định quan hệ kinh tế, dân sự nhưng không áp dụng trong trường hợp TCTD yêu cầu hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay, xuất phát từ nguyên tắc an toàn vay. Đồng thời quy định này cũng nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm trả nợ của bên vay, tránh những hành vi tránh né, trì hoãn nghĩa vụ thanh toán nợ để hưởng lợi về lãi suất, khai thác tài sản bảo đảm.

Theo tác giả, cần xem tình huống pháp lý này như một án lệ trong hoạt động tố tụng, giải quyết tranh chấp yêu cầu hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay tại tòa án, trọng tài (vì phù hợp với các tiêu chí theo Quyết định số 74/QĐ-TANDTC ngày 31/10/2012 quy định đề án phát triển án lệ của Tòa án nhân dân tối cao179). Nếu được hiện thực, án lệ dưới tên gọi: “Án lệ về việc không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với các yêu cầu hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng” sẽ tạo sự thống nhất trong công tác áp dụng pháp luật, tạo niềm tin cho các TCTD khi quyết định vận dụng linh hoạt cơ chế xử lý tài sản để thu hồi nợ, phù hợp với tình hình tài chính thực tế của bên vay, không bị lệ thuộc vào thời gian xử lý.


4.3. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CHO VAY

4.3.1. Bổ sung quy định nhằm bảo đảm quyền được giao kết, thực hiện hợp đồng cho vay của bên vay

4.3.1.1. Quy định xóa bỏ những rào cản về thủ tục cho vay

Theo quan điểm của tác giả, đơn giản hóa thủ tục cho vay là mục tiêu được các nhà làm luật, TCTD hướng đến, nhưng các bên vẫn tuân thủ các thủ tục cho vay bắt buộc để bảo đảm quy trình nghiệp vụ cho vay được hiệu quả, an toàn. Trong đó, tùy từng mục đích vay, đối tượng cho vay, thủ tục vay cũng có sự khác biệt.

Pháp luật ngân hàng trước đây cũng như hiện hành có đặt ra các thủ tục xét duyệt cho vay. Đây là yêu cầu bắt buộc để mang lại hiệu quả của khoản vay, nên không thể định lượng khoản tiền vay để bỏ qua các thủ tục này, kể cả khi cho vay tiêu

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.


179 Tiêu chí án lệ theo Quyết định 74/QĐ-TANDTC ngày 31/10/2012 về việc phê duyệt đề án phát triển án lệ của Tòa án nhân dân tối cao, đó là án lệ “chứa đựng sự giải thích, lập luận cho một hoặc một số các văn bản quy phạm pháp luật (Văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật) về một vấn đề pháp lý đặt ra chưa được văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật đề cập hoặc đề cập còn chung chung, thiếu tính cụ thể hoặc có mâu thuẫn” (Điều 1, Mục I.3, điểm d).

Pháp luật Việt Nam về hợp đồng cho vay trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng - 19


dùng (các khoản vay thường có giá trị nhỏ), nhưng bên vay cũng phải chứng minh có năng lực tài chính thông qua các khoản thu nhập thường xuyên của mình.180

Có nhiều nguyên nhân cho lý do này, nhưng chủ yếu là do cơ chế kiểm soát tài chính doanh nghiệp, cá nhân ở Việt Nam còn nhiều hạn chế, chưa có công cụ kiểm soát tài chính hữu hiệu nên thiếu cơ sở cho việc định lượng khoản tiền vay, làm căn cứ khi xác định thủ tục vay. Đáng chú ý là trong việc đánh giá năng lực tài chính thực sự của bên vay trước khi được lãnh đạo TCTD quyết định cho vay.

Thông tư số 39/2016/TT-NHNN và Thông tư số 43/2016/TT-NHNN đều đề cập đến việc đơn giản hóa một số hồ sơ, thủ tục cho vay. Cụ thể là các thủ tục sau: bỏ giấy đề nghị vay vốn tại hồ sơ đề nghị vay vốn; đơn giản hóa yêu cầu về phương án sử dụng vốn phục vụ đời sống,... Song, theo tác giả, pháp luật ngân hàng không thể liệt kê cụ thể, đầy đủ các thủ tục, tài liệu trong luật để loại bỏ, khắc phục những hạn chế, rối rắm về thủ tục cho vay trong thực tiễn. Bên cạnh đó, quan hệ cho vay vốn dĩ là quan hệ tài sản, các điều kiện thủ tục vay gắn liền với tài sản hình thành vốn vay, tài sản bảo đảm,... nên cần có nguyên tắc chung khi áp dụng quy định này.

Để khắc phục hạn chế, tiến đến xóa bỏ rào cản về thủ tục vay, pháp luật ngân hàng cần ghi nhận, bổ sung những quy định như sau:

Một là, bổ sung biện pháp chế tài phạt vi phạm hành chính đối với TCTD nếu tự đặt ra các thủ tục vay không cần thiết, trái pháp luật để trì hoãn cho vay, trì hoãn giải ngân, cản trở quyền được tiếp cận tín dụng hợp pháp của khách hàng vay.

Hai là, cụ thể hóa quy định giao dịch tài sản bảo đảm không cần công chứng, chứng thực kể cả lĩnh vực nhà đất theo tinh thần Nghị quyết số 25/NQ-CP ngày 02/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc đơn giản hóa 258 thủ tục hành chính (Quy định này ban hành đã lâu thể hiện quan điểm của nhà nước quyết liệt cắt giảm thủ tục hành chính nhưng thiếu thực thi). Theo đó, các hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, kể cả khi có tài sản gắn liền với đất cần bãi bỏ quy định bắt buộc phải được công chứng, thay vào đấy là các văn bản thỏa thuận được các bên chủ động ký kết, bảo đảm tin cậy về hình thức, chỉ cần được đăng ký giao dịch bảo đảm để hợp pháp, đúng thứ tự ưu tiên thực hiện nghĩa vụ bảo đảm là đầy đủ ý nghĩa. Quy định này nếu được thực hiện sẽ đơn giản hồ sơ vay vốn, giảm nhiều chi phí, thời gian xét duyệt tín dụng, giúp các TCTD phục vụ khách hàng tốt hơn.

Hoàn thiện pháp luật về HĐCV phải hướng đến mục tiêu nêu trên, đáp ứng khung tiêu chí hiệu quả của pháp luật về HĐCV như đề cập. Những kiến nghị được hiện thực hóa chính là để bảo đảm quyền tiếp cận tín dụng công bằng, mang lại niềm tin, tiện ích cho khách hàng.


180 Chẳng hạn, ở Đức cho vay trên 100.000 Mác Đức (DM) thì TCTD mới yêu cầu người vay phải trình bày các mối quan hệ kinh tế, xuất trình quyết toán năm (Điều 18 Luật về Ngành tín dụng Đức)


4.3.1.2. Các quy định bảo đảm quyền được khiếu nại, khởi kiện của bên vay trường hợp tổ chức tín dụng từ chối cho vay không có lý do chính đáng

Pháp luật về HĐCV hiện nay vẫn tiếp tục ghi nhận, đề cao quyền được chủ động cho vay của các TCTD (nhà nước không can thiệp sâu vào quan hệ vay, chỉ ban hành các quy định mang tính nguyên tắc, điều kiện để khoản vay được an toàn, hiệu quả). Để tự chủ cho vay, TCTD có quyền từ chối các yêu cầu vay vốn của khách hàng nếu không đáp ứng các yêu cầu, điều kiện quy định nhưng TCTD phải thông báo và nêu rõ lý do (khoản 3, Điều 17 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN). Song, từ quy định này, một vấn đề pháp lý được đặt ra, nếu bên vay có đủ điều kiện vay vốn nhưng vẫn bị TCTD từ chối cho vay thì giải quyết như thế nào?

Điểm b, khoản 1, Luật các TCTD năm 1997 trước đây cho phép bên vay “khởi kiện việc từ chối cho vay không có căn cứ”. TCTD phải có trách nhiệm cho vay nếu khách hàng có đủ điều kiện vay vốn, có tài sản để bảo đảm thực hiện các nghĩa vụ thanh toán nợ. Pháp luật ngân hàng hiện nay không còn quy định cụ thể quyền được khiếu nại nếu TCTD từ chối cho vay. Theo tác giả, quy định trên chưa tạo điều kiện cho bên vay được quyền tiếp cận tín dụng, dễ dẫn đến tùy tiện khi cho vay. Vì vậy, các tổ chức, cá nhân được quyền khiếu nại đến các cơ quan quản lý nhà nước ngành ngân hàng để được giải quyết, nếu TCTD từ chối cho vay không có lý do chính đáng.

Quy định này có ý nghĩa đối với khoản vay ưu đãi của nhà nước, áp dụng đối với khách hàng tiềm năng, bảo đảm quyền của các chủ thể được tiếp cận bình đẳng, công bằng nguồn vốn tín dụng. Tương tự như vậy, quyền được khiếu nại các TCTD nếu họ (TCTD) không giải ngân cũng cần được xem là quyền lợi phát sinh do vi phạm hợp đồng. Song, hành vi không giải ngân của các TCTD khi đó có thể gây ra thiệt hại vật chất nhất định. Trường hợp TCTD tự ý không giải ngân mà không có lý do chính đáng, pháp luật cần trao quyền cho bên vay được khiếu nại hoặc khởi kiện để yêu cầu bồi thường thiệt hại (nếu có quan hệ nhân quả, thiệt hại thực tế xảy ra).

Nghị định số 96/2014/NĐ-CP đặt ra biện pháp chế tài trong trường hợp bên vay có khiếu nại không được các TCTD giải quyết kịp thời (khoản 1, 2 Điều 23), mức phạt vi phạm hành chính lên đến 30.000.000 đồng. Tuy vậy, tuân thủ và chấp hành việc giải quyết khiếu nại, khiếu kiện của các tổ chức, cá nhân không được pháp luật ngân hàng đề cập đến. Trong đó, công tác giải quyết khiếu nại về cho vay, nếu thực hiện chặt chẽ, đúng trình tự thủ tục sẽ bảo đảm cho cơ quan nhà nước giám sát sai phạm của các TCTD, có biện pháp xử lý kịp thời, đúng đắn, bảo vệ quyền lợi bên vay. Khách thể bảo vệ trong trường hợp này, đó còn là sự ổn định, uy tín của hệ thống ngân hàng.

4.3.2. Trách nhiệm pháp lý của các bên trước khi ký kết hợp đồng cho vay (giai đoạn tiền hợp đồng)

Cơ sở lý luận, ý nghĩa về quan hệ giữa các bên trước khi ký kết HĐCV (giai đoạn tiền hợp đồng) đã được luận án đề cập, phân tích (điểm a, mục 2.2.2.1). Phạm vi này nghiên cứu, đề xuất những kiến nghị thiết lập cơ chế pháp lý trước khi ký kết hợp đồng vay, cơ chế này bao gồm những căn cứ pháp lý và hậu quả nếu có vi phạm:


4.3.2.1. Căn cứ pháp lý về trách nhiệm giai đoạn tiền hợp đồng

Pháp luật ngân hàng đề cập đến HĐCV như một hình thức pháp lý duy nhất của giao dịch vay. Xuất phát từ nguyên tắc bắt buộc xét duyệt tín dụng trước khi cho vay (khoản 1, 2 Điều 94 Luật các TCTD năm 2010), quy định này thay vì là quyền năng của TCTD đối với khách hàng, với quy định mới đó còn là nghĩa vụ bắt buộc đối với TCTD trước khi cho vay. Trong mối quan hệ pháp lý đó, các bên phải gánh chịu nhiều chi phí, thời gian, công sức bỏ ra để hướng đến mục tiêu ký kết hợp đồng vay.

Nếu quan niệm bên cho vay có nhu cầu cho vay, phải tự gánh chịu những phí tổn khi tìm kiếm khách hàng, chi phí này được đưa vào lãi suất khi cho vay là chưa hợp lý. Vì trên thực tế, điều này sẽ không tránh khỏi những trường hợp bên vay không vay vốn vì nhiều lý do chủ quan và khách quan sau khi TCTD đã quyết định cho vay. Thiết lập quan hệ pháp lý giai đoạn tiền hợp đồng trong quan hệ HĐCV sẽ giải quyết nhu cầu thực tế này, nâng cao trách nhiệm của các bên (kể cả đối với TCTD) về những cam kết thực hiện trước khi ký kết HĐCV, bù đắp thiệt hại do bên vi phạm gây ra.

Pháp luật ngân hàng đã luật hóa quan hệ giữa các bên vay vốn trước khi ký kết HĐCV thông qua: công tác thẩm định, quyết định cho vay; nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên vay (khoản 2, Điều 16, Điều 17 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN). Theo các quy định này thì: Bên vay có nghĩa vụ cung cấp thông tin, tài liệu chứng từ trong hồ sơ vay vốn trung thực, đầy đủ, đúng pháp luật. Nếu vi phạm, bên cho vay được quyền chấm dứt cho vay thu hồi vốn trước hạn. Song các quy định về trách nhiệm của bên cho vay chưa được quy định. Vì vậy căn cứ xác định trách nhiệm đối với các bên trong giai đoạn tiền hợp đồng được luận án kiến nghị như sau: i) Đối với bên vay: Đó là các vi phạm cung cấp tài liệu, thông tin không đúng sự thật, không ký kết HĐCV sau khi đã được lãnh đạo TCTD quyết định chấp thuận cho vay; ii) Đối với bên cho vay: Đó là hành vi từ chối ký kết hợp đồng vay không có lý do chính đáng.

4.3.2.2. Hậu quả pháp lý đối với các vi phạm cam kết giai đoạn tiền hợp đồng

Pháp luật ngân hàng Việt Nam hiện hành không quy định cụ thể các biện pháp xử lý nếu các bên có vi phạm cam kết giai đoạn tiền hợp đồng. Pháp luật chỉ dừng lại ở các quy định về các tài liệu, thông tin khách hàng nếu không đúng sự thật thì TCTD được quyền chấm dứt cho vay (khoản 1, Điều 95 Luật các TCTD năm 2010). Đồng nghĩa rằng, các biện pháp chế tài vi phạm hợp đồng chỉ áp dụng sau khi ký kết HĐCV là chưa thể hiện hết ý nghĩa trách nhiệm. Vì ngay từ khi tiếp nhận hồ sơ vay vốn, bên vay phải có nghĩa vụ trung thực về tính chính xác đối với hồ sơ, tài liệu mình đã cung cấp. Kể cả khi chưa ký kết HĐCV, nếu bên cho vay qua thẩm tra phát hiện hồ sơ, chứng từ không đúng sự thật thì có quyền yêu cầu bên vay bồi thường thiệt hại về những chi phí phát sinh.

Mặt khác, nếu dựa trên các quy định của pháp luật dân sự để giải quyết là chưa phù hợp. Các quy định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định tại Điều 584 BLDS năm 2015 chỉ nêu lên nguyên tắc chung về trách nhiệm này. Trong khi đó, quan hệ tín dụng vốn dĩ là chuỗi giao dịch đan xen, ràng buộc lẫn nhau được các bên tự


nguyện thực hiện, có những đặc thù riêng. Do vậy, trách nhiệm của các bên về những cam kết không thực hiện đúng trong quan hệ này, theo tác giả cần được đặt ra ở cả hai giai đoạn trước và sau khi ký kết HĐCV như sau:

- Giai đoạn trước khi ký kết HĐCV:

Quá trình thẩm tra, đánh giá hồ sơ vay vốn có kết quả bằng một quyết định (hoặc văn bản) chấp thuận cho vay. Nếu các bên không ký kết HĐCV thì phải bồi thường thiệt hại, áp dụng đối với cả TCTD và khách hàng vay vốn. Thiệt hại trong trường hợp này đó là: chi phí lập hồ sơ, chi phí thẩm định, dự phòng khoản vay. Tuy nhiên, cần phân biệt phạm vi của các chi phí, công sức TCTD đã bỏ ra để bồi thường thiệt hại vì khi đó các bên chưa chính thức ký kết HĐCV. Đối với trường hợp TCTD đã quyết định cho vay nhưng sau đó không ký kết HĐCV mà không có lý do chính đáng thì cũng phải bồi thường cho khách hàng như tương tự.

- Giai đoạn sau khi ký kết HĐCV:

Trách nhiệm của các bên sau khi ký kết HĐCV dựa trên những cam kết trong giai đoạn tiền hợp đồng, thỏa thuận hợp đồng và quy định của pháp luật. Pháp luật hiện hành đã quy định cụ thể các biện pháp chế tài đối với bên vay nếu cung cấp thông tin tín dụng không đầy đủ, không chính xác là phù hợp. Vấn đề này đã được luận án đề cập và phân tích cụ thể (cho dù các thông tin này được bên vay cung cấp trước khi ký kết HĐCV).

Tóm lại, thiết lập quan hệ trách nhiệm giai đoạn tiền hợp đồng vay là nhu cầu khách quan, nhân tố bảo đảm cho HĐCV được thực hiện đúng đắn, hiệu quả. Kiến nghị này nếu được thực hiện sẽ hình thành một cơ chế pháp lý, tác động tích cực đến trật tự trong kinh doanh, nâng cao trách nhiệm của các bên ngay từ khi tiếp nhận hồ sơ vay vốn (kể cả đối với bên vay phải có ý thức cung cấp thông tin, chứng từ vay vốn đầy đủ trung thực), tránh tình trạng các TCTD cạnh tranh không lành mạnh, lôi kéo khách hàng, tùy tiện từ chối cho vay không có lý do chính đáng.

4.3.3. Cơ chế đồng thuận và trách nhiệm pháp lý của bên cho vay trong quan hệ hợp đồng cho vay đồng tài trợ (cho vay hợp vốn)

Quy định về HĐCV hợp vốn đã kế thừa những ưu việt trong các quy định trước đây. Tuy vậy, các TCTD gồm nhiều chủ thể có năng lực, địa vị không đồng đều, mối quan hệ pháp lý giữa các bên cho vay trong thực tiễn cho thấy vẫn còn rời rạc, thiếu một cơ chế pháp lý chặt chẽ, bảo vệ quyền lợi cho các thành viên (TCTD) khi tham gia quan hệ cho vay hợp vốn.

4.3.3.1. Sửa đổi, bổ sung cơ chế trách nhiệm của bên cho vay trong quan hệ hợp đồng cấp tín dụng hợp vốn đối với khách hàng

Pháp luật quy định các TCTD là một bên chủ thể bắt buộc của quan hệ cấp tín dụng hợp vốn. Quyền và nghĩa vụ phát sinh đối với doanh nghiệp đi vay dựa trên hợp đồng này, không phụ thuộc vào hợp đồng hợp vốn được giao kết thực hiện giữa các TCTD. Tuy vậy, việc xác định cơ chế kiểm soát, trách nhiệm giữa một bên là các


TCTD không được ghi nhận, trách nhiệm của bên cho vay hợp vốn đến đâu đối với khách hàng cũng không được rõ ràng. Mặc dù trên lý thuyết, các bên có thể thỏa thuận ghi trong hợp đồng điều khoản về mối quan hệ này, nhưng với những đặc thù đã nêu, pháp luật cần có quy định trong trường hợp các bên không có thỏa thuận nhằm cân bằng quyền lợi, giúp hợp đồng vay dạng này an toàn hơn.

Thứ nhất, xét về trách nhiệm pháp lý, hợp đồng cấp tín dụng hợp vốn đối với khách hàng không phụ thuộc vào hợp đồng hợp vốn được các TCTD thỏa thuận sẽ làm tăng nguy cơ rủi ro. Lưu ý nhất là đối với các TCTD đầu mối vốn dĩ được pháp luật quy định phải có uy tín, tiềm lực tài chính tốt, trực tiếp tham gia thực hiện hợp đồng cấp tín dụng hợp vốn.

Theo các quy định của pháp luật hiện hành thì hai hợp đồng này mang tính độc lập, không phụ thuộc lẫn nhau vì các nội dung thỏa thuận hợp vốn không ràng buộc với bên vay. Do đó, vai trò của TCTD làm đầu mối, với tư cách là người ký hợp đồng cấp tín dụng hợp vốn đối với khách hàng phải chịu trách nhiệm khi có rủi ro xảy ra hoặc ngược lại.

Thứ hai, khi một bên hợp đồng là chủ thể gồm nhiều pháp nhân thì vai trò và trách nhiệm với bên vay như thế nào, nếu không được thể hiện rõ sẽ không bảo đảm các nguyên tắc chung của quan hệ HĐCV như đã đề ra.

Pháp luật ghi nhận TCTD đầu mối được hưởng lợi ích từ phí tín dụng, các khoản lợi ích tương ứng với tỷ lệ góp vốn tín dụng. Xác định, làm rõ mối quan hệ pháp lý của hai dạng hợp đồng này theo định hướng nêu trên sẽ làm ràng buộc trách nhiệm của các bên, bảo đảm lợi ích của từng thành viên tham gia cấp tín dụng.

4.3.3.2. Sửa đổi, bổ sung cơ chế đồng thuận giữa các bên cho vay khi tham gia quan hệ hợp đồng tín dụng hợp vốn

Nguyên tắc cùng thẩm định, cùng quyết định cấp tín dụng cho khách hàng và cùng tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động cấp tín dụng (khoản 1, Điều 3 Thông tư số 42/2011/TT-NHNN), đã thể hiện rõ nét bản chất của dạng hợp đồng đặc thù này: Các TCTD có thể kết hợp, cùng tham gia cho vay những khoản vay lớn theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi. Song, cơ chế đồng thuận thẩm định, quyết định cho vay, chịu trách nhiệm như thế nào gần như bỏ ngỏ, không được pháp luật đề cập đến. Duy nhất chỉ có quy định thống nhất hình thức thẩm định đối với dự án cấp tín dụng hợp vốn dưới hình thức tham gia trực tiếp, qua ủy quyền hoặc thuê thẩm định độc lập của bên thứ ba (khoản 1, Điều 10 Thông tư số 42/2011/TT-NHNN), thể hiện phần nào tính đồng thuận này.

Theo tác giả, quy định về cấp tín dụng hợp vốn chỉ mang ý nghĩa tương đối, chưa phát huy năng lực của các chủ thể (thành viên cấp tín dụng) khi phát hiện sai phạm để xử lý theo đúng quy định và nội dung đã thỏa thuận trong từng hợp đồng cấp tín dụng hợp vốn đối với khách hàng. Ngay cả quy định về giải quyết bất đồng giữa các TCTD được pháp luật đặt ra, cũng chưa có cơ chế thực hiện cụ thể. Nếu chỉ thuần túy dựa vào tỷ lệ tín dụng được cấp để quyết định trách nhiệm vật chất và xử lý bất


đồng theo như cách làm thường thấy trong hoạt động góp vốn của doanh nghiệp,181 sẽ không tránh khỏi những bất cập như sau:

Thứ nhất, trong giao dịch cho vay, lợi ích của TCTD gắn liền với trách nhiệm bảo toàn tiền vay. Quyền lợi của các TCTD khi tham gia quan hệ pháp luật cho vay hợp vốn không dành riêng TCTD nào. Điều cần thiết hiện nay là phải cân bằng quyền lợi của các bên tham gia hợp vốn. Trong đó, các đề xuất, kiến nghị của các TCTD tham gia hợp vốn với chức năng giám sát và quyền yêu cầu sử dụng các công cụ thẩm định, giám sát nếu có sai phạm (không phân biệt tỷ lệ cấp tín dụng) phải được pháp luật bảo đảm thực hiện.

Thứ hai, các TCTD tham gia quan hệ HĐCV hợp vốn tuy không thành lập pháp nhân mới, nhưng nguyên tắc trên đã đặt ra áp lực cho các nhà làm luật: phải xây dựng cơ chế đồng thuận tối ưu nhất nhằm giải quyết các mục tiêu đã nêu.

Với quy định hiện hành cho phép thành viên đầu mối dàn xếp cấp tín dụng hợp vốn là minh chứng cho thấy sự tập trung quá nhiều quyền vào thành viên đầu mối, thiếu cơ chế đồng nhất bảo đảm cho hoạt động của thành viên tham gia. Các bên tham gia quan hệ hợp đồng này hoàn toàn có thể tự thỏa thuận, tự thiết lập cơ chế thực hiện dựa trên nguyên tắc tự do hợp đồng. Song, có thể thấy, do năng lực, địa vị của bên cho vay khác nhau, do tính phức tạp của quan hệ cho vay hợp vốn, không phải bất kỳ TCTD nào cũng có thể nhìn nhận, đánh giá, dự liệu mọi diễn biến có thể xảy ra một cách đầy đủ, ghi vào trong hợp đồng hợp vốn.

Từ những phân tích về mối quan hệ pháp lý còn rời rạc giữa hợp đồng hợp vốn và hợp đồng cấp tín dụng hợp vốn, cũng như minh chứng vẫn còn thiếu một cơ chế đồng thuận để bảo đảm quyền bình đẳng của các chủ thể ngân hàng, luận án kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định như sau:

Một là, luật hóa mối quan hệ giữa hợp đồng hợp vốn (được ký kết giữa các TCTD) với hợp đồng cấp tín dụng hợp vốn đối với khách hàng. Theo đó, quy định nội dung hợp đồng cấp tín dụng hợp vốn phải thể hiện trách nhiệm của bên cho vay hợp vốn, bao gồm cả cơ chế pháp lý giải quyết những bất đồng phát sinh trong đó, công tác kiểm tra giám sát cho vay phải làm rõ cơ chế giải quyết xung đột giữa các thành viên tham gia cho vay hợp vốn.

Hai là, bổ sung quy định bảo đảm quyền tham gia kiểm soát tín dụng của bên cho vay hợp vốn. Theo đó, các thành viên được quyền đưa ra yêu cầu, kiến nghị khi phát hiện rủi ro, nguy cơ mất an toàn vay. Nguyên tắc đồng thuận theo quy định hiện nay chỉ mới dừng lại ở vai trò của ngân hàng đầu mối, nguyên tắc này vẫn chưa thể hiện vai trò, trách nhiệm của các thành viên tham gia cấp tín dụng hợp vốn. Điều này sẽ tạo rủi ro cho các TCTD làm đầu mối, cũng như thiếu một cơ chế giám sát liên tục, đa chiều có hiệu quả.


181 Xem thêm: Khoản 3, Điều 60 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định chi tiết về tỷ lệ biểu quyết, quyết định các nghị quyết, quyết định, điều lệ trong doanh nghiệp


Tóm lại, thực hiện những kiến nghị này sẽ góp phần trả lời cho câu hỏi nghiên cứu về một cơ chế pháp lý nhằm nâng cao năng lực quản lý đối với hợp đồng vay hợp vốn, nhận diện, phòng ngừa, hạn chế rủi ro phát sinh khi ký kết, thực hiện HĐCV.

4.3.4. Kiến nghị bổ sung một số quy định để bảo vệ quyền lợi bên vay khi vay vốn nhằm mục đích tiêu dùng

Thực trạng quy định về HĐCV tiêu dùng đã có những bước tiến mới so với trước, nhưng vẫn bộc lộ nhiều bất cập trong quan điểm xây dựng luật, cũng như chưa thể hiện những đặc thù rõ nét so với các khoản vay thông thường khác như đã được luận án phân tích, đánh giá.182 Luận án nghiên cứu kinh nghiệm, chuẩn mực quy định về cho vay tiêu dùng phát triển mạnh mẽ, một thời gian dài ở các nước trên thế giới, đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật theo các điểm sau đây:

4.3.4.1. Mở rộng phạm vi và đối tượng điều chỉnh quan hệ hợp đồng cho vay tiêu dùng

Một số kinh nghiệm theo quy định của pháp luật các nước:

- Pháp luật một số nước theo hệ thống luật thành văn (civil law): Các quy định về HĐCV tiêu dùng chịu sự điều chỉnh của BLDS: Tại Đức, vấn đề này được quy định tại mục 491, Chương 2 BLDS Đức; Tại Thái Lan, quy định tại Chương II, Luật Thương mại và Dân sự Thái Lan.183 Tại Pháp, cho vay tiêu dùng cũng được xem là một dạng giao dịch dân sự, quy định cụ thể tại BLDS Pháp (Thiên X chương II, từ Điều 1892 đến Điều 1914).

- Pháp luật một số nước theo hệ thống thông luật (common law): Các quy định về HĐCV tiêu dùng phát triển mạnh mẽ, được ghi nhận phổ biến trong các phán quyết tòa án, sau đó được tập hợp thành các đạo luật tín dụng tiêu dùng. Chẳng hạn như:

i) Tại Anh: Cho vay tiêu dùng được điều chỉnh bởi đạo luật cho vay tiêu dùng (Consumer Credit Act) năm 1974, sửa đổi năm 2006. Điều 1 đạo luật này định nghĩa: HĐCV tiêu dùng áp dụng cho các cá nhân và tổ chức vay vốn dưới 25.000 bảng Anh (ban đầu là 5.000 bảng Anh, sau đó định mức này tăng lên 15.000 bảng Anh vào năm 1985 và 25.000 bảng Anh vào năm 1998).184

Quy định tại các quốc gia này định lượng một khoản tiền cụ thể để xác định quan hệ cho vay tiêu dùng nên khó nhầm lẫn khi áp dụng, thay vì chỉ dựa vào mục đích (nhu cầu vay) như cách phân loại thường thấy trong quan hệ hợp đồng như ở các nước theo hệ thống luật thành văn. Theo quy định này thì: “mục đích của đạo luật này là để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng – bao gồm những cá nhân, đối tác và những cơ quan chưa hợp nhất đối với những loại giao dịch liên quan đến số tiền không quá 25.000 bảng Anh”.185


182 Xem thêm: điểm đ, mục 2.2.1; điểm a, mục 3.3.1; điểm b, mục 3.3.2.1 của Luận án

183 Bộ Luật dân sự và Thương mại Thái Lan, Nxb. CTQG (1995)

184 E. P. Ellinger, Eva Lomnicka and Richard Hooley, Modern Banking Law, 3rd ed., Oxford University, tr. 76

185 E. P. Ellinger, Eva Lomnicka and Richard Hooley, Sđd (183), tr. 76

Xem tất cả 232 trang.

Ngày đăng: 09/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí