Nhu Cầu Phát Triển Các Dịch Vụ Cho Vay Thực Hiện Hiệu Quả Các Mục Tiêu


5. Các biện pháp chế tài chuyển nợ quá hạn, chấm dứt cho vay thu hồi vốn trước hạn thực tiễn áp dụng vẫn còn thiếu thống nhất. Các TCTD thường đưa vào hợp đồng những điều khoản không đúng pháp luật, từ đó đơn phương áp đặt, tự ý thực hiện các quyền này đối với khách hàng vay. Các quy định pháp luật hiện hành cũng chưa có biện pháp hữu hiệu để xử lý, chế tài đối với TCTD vi phạm. Trong khi đó, vận dụng các biện pháp nghiệp vụ để chấm dứt cho vay trước hạn, đồng nghĩa với việc không tiếp tục giải ngân, mở rộng, thay đổi các biện pháp bảo đảm giúp cho khoản vay an toàn hơn là giải pháp hữu hiệu, song các nguyên tắc áp dụng, hệ quả pháp lý nếu áp dụng trái pháp luật, không được các nhà làm luật đề cập đến.

6. Trong việc thiết lập quy định nội bộ của các TCTD, các nhà làm luật đã ghi nhận, tiếp tục khẳng định quyền được chủ động ký kết hợp đồng vay nhưng bỏ ngỏ mục đích, ý nghĩa của cơ chế này. Điều này sẽ tạo sự tùy tiện, thiếu sự đánh giá đúng mực tầm quan trọng của quy định nội bộ khi áp dụng. Bên cạnh đó, quy định nội bộ của các TCTD thường thiếu chặt chẽ, cần có cách thức kiểm soát, giám sát thực hiện.

Cùng với việc luật hóa quy định về cho vay tín chấp, pháp luật đã mở rộng hơn các điều kiện cho vay phù hợp với thông lệ chung. Mặc dù vậy, nếu không làm rõ cơ chế cho vay này sẽ tạo tâm lý lo lắng cho các cán bộ, nhân viên tín dụng khi vận dụng sẽ phải gánh chịu trách nhiệm cả về dân sự lẫn hình sự khi thất thoát vốn vay.

7. Về cơ cấu lại thời hạn trả nợ, pháp luật ngân hàng vẫn tiếp tục ghi nhận, cho phép các TCTD chủ động thực hiện theo tiêu chí an toàn vay, chưa thật sự xem xét đến khía cạnh lợi ích của chủ thể hợp đồng nhằm hỗ trợ bên vay khi gặp khó khăn khách quan. Tương tự như vậy, trong quan hệ mua bán nợ giữa TCTD với bên thứ ba, giao dịch này mang ý nghĩa vì mục tiêu an toàn tín dụng, quyền lợi của bên bán là các TCTD chưa được bảo đảm đúng mực, chưa hài hòa lợi ích hợp đồng như đúng nghĩa.

8. Pháp luật ngân hàng hiện hành còn bộc lộ bất cập làm hạn chế quyền chủ động được xử lý tài sản bảo đảm của các TCTD theo thỏa thuận. Đây là nguyên nhân dẫn đến tồn đọng nợ (phát sinh từ HĐCV) đến nay vẫn chưa có những giải pháp căn cơ, hiệu quả. Cùng với quyết sách của Đảng và nhà nước gần đây về thủ tục tố tụng rút gọn, quyền xử lý tài sản bảo đảm, pháp luật trong lĩnh vực này phần nào đã giải quyết vướng mắc này, tạo niềm tin cho các TCTD. Tuy vậy, các rào cản của cơ chế này vẫn còn những tồn tại như luận án nhận diện, cần tiếp tục nghiên cứu tổng thể khắc phục, không chỉ dừng lại ở phạm vi đề mục luận án.

Tóm lại, từ thực trạng trên, pháp luật về HĐCV hiện hành đã thiết lập cơ chế nhận diện, bảo đảm an toàn vay tốt hơn trước. Nhưng các quy định nội bộ, thực thi còn hạn chế; vẫn chưa bảo đảm quyền bình đẳng thông tin, hài hòa quyền lợi hợp đồng; nhiều quy định về chế tài vi phạm hợp đồng, biện pháp bảo đảm rời rạc, thiếu rõ ràng, khó áp dụng; cơ chế chủ động xử lý nợ vẫn còn nhiều rào cản. Vì vậy, luận án có nhiệm vụ tiếp tục nghiên cứu, giải quyết triệt để những bất cập đã nêu, đóng góp vào kết quả nghiên cứu bằng các giải pháp, kiến nghị thiết thực, có căn cứ khoa học.


CHƯƠNG 4

GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG VÀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CHO VAY TRONG LĨNH VỰC TÍN DỤNG NGÂN HÀNG

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.


4.1. NHỮNG NHU CẦU, ĐỊNH HƯỚNG VÀ NGUYÊN TẮC

Pháp luật Việt Nam về hợp đồng cho vay trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng - 17

4.1.1. Nhu cầu và định hướng

Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về HĐCV phải xuất phát từ nhu cầu thực tế của đời sống kinh tế - xã hội, nhu cầu khắc phục những vướng mắc khi áp dụng pháp luật vào thực tiễn. Nội dung đề mục này phân tích, đánh giá một số nhu cầu chủ yếu với các định hướng, làm cơ sở cho các giải pháp và kiến nghị, khắc phục những hạn chế, bất cập của pháp luật về HĐCV.

4.1.1.1. Nhu cầu phát triển các dịch vụ cho vay thực hiện hiệu quả các mục tiêu

kinh tế

Về phương diện quan hệ hợp đồng, phát triển giao dịch cho vay sẽ dẫn đến

những xung đột về quyền lợi giữa các chủ thể là không thể tránh khỏi, với những lý do chủ yếu sau:

Một là, yêu cầu an toàn cao khi cho vay làm cho thủ tục vay rối rắm, gây khó khăn cho các doanh nghiệp, cá nhân tiếp cận vốn, cản trở quyền tiếp cận tín dụng;

Hai là, áp lực tăng trưởng tín dụng đáp ứng yêu cầu của hệ thống ngân hàng làm cho các ngân hàng chạy đua doanh thu dễ thiếu sót, sai phạm do cho vay dưới chuẩn, cạnh tranh không lành mạnh;

Ba là, về phía bên vay, tâm lý muốn vay vốn nhanh giải quyết các yêu cầu cấp bách trong kinh doanh nên họ (bên vay) chưa cân nhắc đầy đủ khả năng, quyền lợi của mình khi ký kết các hợp đồng vay dễ dẫn đến những mâu thuẫn, tranh chấp về sau khi phát sinh những tình huống gây xâm hại đến lợi ích của họ.

Những lý do chủ quan và khách quan này đặt ra yêu cầu: Pháp luật về HĐCV phải kịp thời giải quyết những mâu thuẫn giữa các bên hợp đồng và với cơ quan quản lý nhà nước trên cơ sở quyền lợi, trách nhiệm cần phải dung hòa. Các nhà làm luật, cơ quan quản lý nhà nước không vì mục tiêu an toàn vay, tự đặt ra những quy định cản trở các bên thực hiện quyền tự do định đoạt hợp đồng, làm nảy sinh tâm lý đối phó, dẫn đến hiệu quả cho vay thấp.

4.1.1.2. Yêu cầu sửa đổi pháp luật hợp đồng cho vay phù hợp với kinh nghiệm quốc tế

Pháp luật về tín dụng ngân hàng đã tiếp cận mạnh mẽ kinh nghiệm, tiêu chuẩn về cho vay theo các định chế tài chính quốc tế: Các nguyên tắc đánh giá điều kiện vay của khách hàng vay (còn gọi là “nguyên tắc 6C”) theo xếp hạng tín dụng nội bộ của


các TCTD; Các nguyên tắc của Basel166 về giám sát ngân hàng, từng bước được cụ thể hóa như thường thấy trong báo cáo tài chính hàng năm của các NHTM, góp phần làm an toàn hơn trong các giao dịch vay.167

Trong việc tiếp thu kinh nghiệm pháp luật quốc tế, đây là nhu cầu tự thân của pháp luật về HĐCV, phù hợp với lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam đang hội nhập mạnh mẽ. Lĩnh vực này, pháp luật các nước ở cả hai dòng luật (dân luật và thông luật) có đề cập, nhiều kinh nghiệm hữu ích cần được so sánh, rút ra những kinh nghiệm với thực tiễn Việt Nam để hoàn thiện

4.1.1.3. Nhu cầu bảo vệ quyền lợi bên vay vay vốn nhằm mục đích tiêu dùng

Quan hệ HĐCV tiêu dùng được xác lập giữa các TCTD với khách hàng vay tiêu dùng (những chủ thể “yếu thế”). Do đó, chế độ pháp lý của hợp đồng dạng này cũng có sự khác biệt, tác động mạnh mẽ đến các quyền lợi hợp pháp, chính đáng của bên vay. Tăng cường quyền lợi bên vay tiêu dùng cân bằng hơn so với bên cho vay bằng pháp luật (can thiệp của nhà nước bằng công cụ pháp lý) là yêu cầu cần thiết.

Nhu cầu bảo vệ quyền lợi của bên vay tiêu dùng không chỉ đơn thuần ở vấn đề lãi suất, minh bạch khi cho vay như trong các quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay. Quy định này cần được mở rộng, bao hàm cả những chia sẻ trách nhiệm của TCTD về rủi ro của người vay, trách nhiệm của các TCTD trong quan hệ với chủ thể cung ứng dịch vụ, thương mại tiêu dùng, thay vì trách nhiệm này thuộc về bên vay như thực tiễn ký kết hợp đồng.

4.1.1.4. Nhu cầu xử lý nợ phát sinh từ hợp đồng cho vay

Trong các HĐCV, điều khoản xử lý nợ được TCTD ghi nhận cụ thể, cho phép TCTD được bán tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Tuy vậy, những điều khoản này khó thực hiện trên thực tế vì những nguyên nhân sau: Một thời gian dài, pháp luật ngân hàng còn thiếu cơ chế hữu hiệu cho phép TCTD chủ động xử lý tài sản bảo đảm; TCTD chưa cương quyết, bám sát, kịp thời xử lý tài sản bảo đảm do tính chất phức tạp của giao dịch đặc thù này; niềm tin của bên vay vào công tác này chưa cao, tâm lý chây ỳ, cố tình chiếm giữ tài sản bảo đảm để tiếp tục khai thác, sử dụng, hưởng lợi tức vẫn còn thường trực, là những trở ngại đối với TCTD.

Vì vậy, pháp luật ngân hàng cần khẩn trương hoàn thiện, tiếp tục khắc phục để củng cố quyền chủ động xử lý nợ từ HĐCV, xóa bỏ những rào cản để các quyền này được bảo đảm thực thi, góp phần vào công cuộc cải cách ngân hàng, đẩy nhanh công tác xử lý nợ xấu.


166 Nguyên tắc của Basel đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ (1998)

167 Xem thêm: Báo cáo tài chính hợp nhất của Ngân hàng thương mại Á Châu năm 2016. Nguồn: http://acb.com.vn/wps/wcm/connect/394d0718-6f97-4e17-9bf5- e0bce95e4c3d/BCTC+Hop+nhat.pdf?MOD=AJPERES, truy cập ngày 23/1/2019


4.1.1.5. Nhu cầu áp dụng đúng quy định của pháp luật về hợp đồng cho vay

Quan hệ HĐCV chịu sự điều chỉnh của nhiều ngành luật, tạo nên rối rắm, khó hiểu, nhất là trong quan hệ với hợp đồng bảo đảm như đã được phân tích. Bên cạnh đó, do tính linh hoạt, chủ động của quan hệ hợp đồng nên TCTD thường đặt ra nhiều điều khoản có lợi cho họ, kể cả những điều khoản không đúng pháp luật như đã được luận án minh chứng.

Trong công tác thực thi, giải quyết tranh chấp HĐCV, các TCTD, tòa án các cấp vẫn thường áp dụng sai pháp luật dẫn đến tranh chấp kéo dài, gây thiệt hại, làm mất niềm tin vào các đương sự.

Vận dụng đúng quy định về HĐCV trong tình hình hiện nay là nhu cầu thực tế để bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của các bên. Đó còn là uy tín của các TCTD trong việc chấp hành, tuân thủ pháp luật, tạo niềm tin cho khách hàng khi tham gia quan hệ hợp đồng vay thường xuyên, nhưng có nhiều mối quan hệ pháp lý phức tạp.

4.1.2. Nguyên tắc hoàn thiện

Đó là những tư tưởng, quan điểm chủ đạo hoàn thiện pháp luật về HĐCV được xây dựng dựa trên các nhu cầu, định hướng hoàn thiện, yêu cầu đặc thù của quan hệ HĐCV, làm cơ sở xây dựng, hình thành các giải pháp, kiến nghị có cơ sở khoa học, có ý nghĩa thực tiễn.

4.1.2.1. Bảo đảm quyền tự chủ khi ký kết, thực hiện hợp đồng cho vay

Nguyên tắc này xuất phát từ cơ sở lý luận về quyền tự do kinh doanh của tổ chức, cá nhân trong quan hệ hợp đồng được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận bảo vệ, thể hiện rõ nét bằng việc pháp luật ngân hàng hiện nay đã chính thức ghi nhận quy định nội bộ về cho vay. Theo đó, các TCTD có trách nhiệm tự xây dựng quy định nội bộ về cho vay phù hợp với thực tiễn, điều kiện, hoàn cảnh từng TCTD, khắc phục những thiếu sót, những quy định cứng nhắc của pháp luật, từ đó làm hình thành môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh phù hợp, phát huy hiệu quả khi ký kết, thực hiện hợp đồng.

Song, đây chỉ là phần nổ lực được ghi nhận của các nhà làm luật, của các TCTD vì thực thi các quyền này vẫn còn nhiều bất cập: Đó có thể là những rủi ro do không thu hồi được vốn chưa được phân định do khách quan hay chủ quan làm căn cứ để xem xét trách nhiệm, tránh trường hợp bị lạm dụng để hình sự hóa các quan hệ tín dụng, gây hoang mang trong ngành ngân hàng; Vẫn còn thiếu một cơ chế pháp lý chủ động, hiệu quả bảo đảm cho các TCTD thu hồi tài sản để xử lý, cấn trừ nợ….

Quyền tự chủ ký kết, thực hiện HĐCV phải gắn với cơ chế pháp lý đầy đủ, minh bạch, khoa học. Có như thế, pháp luật về HĐCV mới phát huy hiệu quả thực thi.

4.1.2.2. Bảo đảm quyền ký kết, thực hiện hợp đồng vay công bằng, bình đẳng

Hoàn thiện các quy định của pháp luật về HĐCV cần phải hướng đến mục tiêu nêu trên, xóa bỏ những rào cản không cần thiết, tạo điều kiện cho khách hàng tiếp cận tốt hơn vốn vay. Khi đó, pháp luật mới bảo đảm yêu cầu, mục tiêu tham gia, phát triển


của các thành phần kinh tế, không phân biệt bên vay là doanh nghiệp quy mô lớn hay nhỏ, tổ chức hay cá nhân,…

Một TCTD hoạt động hiệu quả không chỉ nghĩ đến lợi ích của riêng mình mà còn hướng đến lợi ích của khách hàng, lợi ích chung của cộng đồng. Do vậy, các TCTD cần sẵn sàng chia sẻ quyền lợi hợp đồng cho khách hàng khi họ gặp khó khăn thông qua các nghiệp vụ gia hạn nợ, khoanh nợ,…

Pháp luật ngân hàng hiện nay đã nâng cao hơn vai trò, quyền lợi của người vay nhưng vẫn chưa hữu hiệu, đầy đủ, chưa bảo đảm bình đẳng hợp đồng cần tiếp tục làm rõ, ghi nhận các nguyên tắc áp dụng pháp luật, tránh những quy định chung chung, thiếu rõ ràng, dễ bị lạm dụng đưa vào HĐCV những điều khoản khung trái pháp luật, gây bất lợi cho bên vay.

4.1.2.3. Bảo đảm nguyên tắc an toàn và hiệu quả của hợp đồng cho vay

Pháp luật với đặc điểm là thượng tầng kiến trúc phải thường xuyên bổ sung, sửa đổi, định hướng, đáp ứng mục tiêu phát triển lâu dài của nền kinh tế. Đối với giao dịch cho vay, các quy định của pháp luật cũng phải được xây dựng hoàn thiện hơn theo nguyên tắc an toàn, phù hợp với bản chất của quan hệ hợp đồng này.

Khủng hoảng cho vay dưới chuẩn khởi nguồn tại Hoa Kỳ (năm 2007-2008) 168 là bài học kinh nghiệm vẫn còn nguyên vẹn tính thời sự, minh chứng cho thấy tình trạng nợ xấu, chủ yếu là nợ phát sinh từ HĐCV gây ảnh hưởng tiêu cực đến hệ thống tài chính kinh tế toàn cầu. Tình trạng này đặt ra nhiều yêu cầu cần phải xem xét giải quyết, tránh nguy cơ mất an toàn trong hệ thống tài chính, ảnh hưởng đến các mục tiêu lợi ích kinh tế của nhà nước.

Ngoài những lý do chủ quan từ chính các TCTD, theo tác giả, pháp luật về HĐCV chưa hoàn thiện cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên. Bên cạnh đó, yêu cầu hiệu quả của HĐCV cũng cần được các nhà làm luật hướng đến trong quá trình khắc phục vướng mắc của pháp luật, giải quyết quyền lợi hợp pháp, chính đáng phát sinh từ HĐCV, thay vì chỉ chú trọng mục tiêu an toàn tín dụng, làm giảm hiệu quả của pháp luật.

Tóm lại, từ những nguyên tắc chủ đạo được nêu trên, luận án có nhiệm vụ đưa ra những giải pháp, kiến nghị cụ thể, có căn cứ, làm cơ sở cho việc khắc phục những sai phạm trong quá trình áp dụng pháp luật. Những giải pháp này đóng góp, hoàn thiện hơn nữa pháp luật HĐCV, đóng góp những tích cực vào hoạt động cho vay nói chung của ngành ngân hàng Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ nhưng cũng đối mặt nhiều rủi ro, thách thức.


168 Xem thêm: Mạc San (2008), Khủng hoảng nợ dưới chuẩn tại Mỹ: Từ A đến Z, http://vneconomy.vn/tai- chinh/khung-hoang-no-duoi-chuan-tai-my-tu-a-den-z-62186.htm, truy cập lúc 7:57 ngày 27/11/2017


4.2. GIẢI PHÁP PHÁP LÝ KHẮC PHỤC BẤT CẬP, NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CHO VAY

Pháp luật về HĐCV hiện nay sau nhiều lần bổ sung đã thể hiện nhiều ưu điểm, đáp ứng các yêu cầu linh hoạt của quan hệ hợp đồng. Song, thực tiễn giao kết, thực hiện và xét xử minh chứng cho thấy: Vẫn còn nhiều quy định chưa phù hợp, rõ ràng dẫn đến nhận thức, áp dụng pháp luật không thống nhất, thậm chí vận dụng sai vào công tác giải quyết tranh chấp.

Từ thực tiễn nêu trên, luận án nhận diện, đề xuất 05 (năm) trường hợp còn vướng mắc, thường xảy ra trong thực tiễn, đồng thời đề ra giải pháp pháp lý khắc phục,169 đóng góp những cơ sở lý luận, giá trị thực tiễn vào công tác xây dựng nghị quyết của ngành tòa án, ban hành các án lệ mới; ngành ngân hàng, TCTD ban hành các quy định hướng dẫn; xây dựng, củng cố kinh nghiệm trong công tác giải quyết tranh chấp tại các ngân hàng, doanh nghiệp.

4.2.1. Quy trình thực hiện hợp đồng cho vay an toàn, hiệu quả đối với bên cho vay

Quy trình cho vay (hay còn gọi là “quy trình tín dụng”) thường được các nghiên cứu trong khoa học ngân hàng đề cập đến. Phạm vi nghiên cứu của mục này góp thêm các giải pháp pháp lý để TCTD xây dựng quy trình cho vay theo tiêu chí an toàn, hiệu quả, hạn chế những rủi ro phát sinh.

Thứ nhất, về trách nhiệm của từng thành viên tham gia quy trình cho vay

Để thực hiện tốt quy trình cho vay vốn dĩ kéo dài, phức tạp gồm nhiều công đoạn khác nhau, TCTD phải kịp thời ban hành quy định nội bộ, phân định rõ trách nhiệm của từng thành viên tham gia nhằm mục đích: nâng cao trách nhiệm của từng cá nhân; sớm phát hiện lỗ hổng trong quy trình cho vay, kịp thời có biện pháp chấn chỉnh, khắc phục; thực hiện tốt chức năng giám sát từ khi cho vay, cho đến khi thu hồi hết nợ.

Trên thực tế tại các chi nhánh, đơn vị phụ thuộc của TCTD, do quy mô và điều kiện, năng lực còn hạn chế, các bộ phận tín dụng, bộ phận kế toán cho vay vừa thực hiện chức năng chuyên môn (tìm kiếm khách hàng, thẩm định điều kiện vay vốn, phát tiền vay, thu nợ,…) đồng thời kiêm nhiệm nghiệp vụ giám sát cho vay đối với những khoản vay do chính mình tham gia trực tiếp xét duyệt, quyết định. Điều này có nhiều thuận lợi cho công tác quản lý nhưng không bảo đảm tính độc lập, khách quan, đánh giá đúng chất lượng tín dụng.

Thiết lập cơ chế giám sát tín dụng độc lập trong nội bộ của TCTD, đồng thời nâng cao năng lực giám sát thông qua vai trò của bộ phận pháp chế, kiểm toán tại các


169 Yêu cầu về “Giải pháp pháp lý”, ràng buộc trách nhiệm thực hiện đối với các chủ thể, mở rộng ra ngoài phạm vi áp dụng án lệ, không chỉ riêng trong ngành Tòa án (Xem tại: Tòa án nhân dân tối cao (2018), Hội đồng án lệ: Báo cáo số 35/BC-HĐTV ngày 12/10/2018 về kết quả phiên họp tư vấn án lệ). Theo tác giả, luận điểm này là phù hợp với các quy định hiện nay cho phép ngành tòa án được ban hành các nghị quyết, án lệ, thống nhất trong công tác xét xử, đồng thời là cơ sở, hướng dẫn để các tổ chức, cá nhân soạn thảo hợp đồng vay, thực thi trong quá trình hợp đồng, tự giải quyết tranh chấp. Do vậy các giải pháp này có giá trị thực hiện, khắc phục những tồn tại, quy định của pháp luật được ban hành còn chồng chéo, chưa rõ ràng, còn nhiều cách hiểu khác nhau


đơn vị phụ thuộc của TCTD (chi nhánh, văn phòng đại diện) sẽ góp phần giải quyết vướng mắc, hạn chế này.

Thứ hai, đánh giá năng lực bên vay, hiệu quả dự án, mục đích sử dụng vốn vay

Công tác này phải được TCTD thực hiện ngay từ khi tiếp nhận hồ sơ xin vay vốn. Các TCTD phải suy tính đến năng lực của chủ thể vay vốn, hiệu quả khi sử dụng vốn vay, đáp ứng đầy đủ các tiêu chí để được cho vay. Để thực hiện công tác này, TCTD phải yêu cầu khách hàng cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết, đầy đủ, bảo đảm trung thực, khách quan; có phương thức kiểm tra, đánh giá phù hợp với từng mục đích sử dụng vốn. Theo tác giả, cần lưu ý sử dụng các công cụ thẩm định, kiểm định, kiểm toán độc lập đối với một số lĩnh vực đặc thù như: đầu tư bất động sản, xây dựng, tài chính,... để những kết quả này được khách quan, dự phòng những rủi ro có thể xảy ra.

Trách nhiệm đánh giá đúng giá trị tài sản khi đưa vào thực hiện biện pháp bảo đảm (do TCTD hoặc các đơn vị độc lập có chức năng thực hiện) phải “dựa trên các tiêu chuẩn kỹ thuật, thực trạng của tài sản; phù hợp với giá thị trường nơi có tài sản tại thời điểm định giá” làm cơ sở để các cơ quan pháp luật tham chiếu khi có tranh chấp hoặc xử lý sai phạm (khoản 2, Điều 2 Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT- TANDTC-VKSNDTC-BTP-BTC ngày 28/3/2014). Đây là công việc khó khăn, thường xảy ra sai sót do TCTD thẩm định giá, xét duyệt giá trị tài sản bảo đảm không đúng quy định, nâng khống giá trị tài sản bảo đảm, gây hậu quả thiệt hại nghiêm trọng (do không thu hồi vốn vay) cho các TCTD.

Công tác đánh giá phải dự báo nguy cơ, rủi ro xảy ra kể cả khi nền kinh tế biến động (chẳng hạn, vận dụng nguyên tắc định kỳ định giá tài sản bảo đảm theo thị trường đối với khoản vay trung, dài hạn). Việc xét duyệt hạn mức cho vay cũng phải dựa trên kết quả này, có xem xét đến lịch sử vay vốn, mức độ tín nhiệm của bên vay.

Quá trình giải ngân theo tiến độ hợp đồng cũng phải phù hợp với các điều kiện hợp đồng được đặt ra. Trong các điều kiện đó, TCTD phải làm rõ hiệu quả của mục đích sử dụng vốn tại thời điểm giải ngân. Dựa trên nguyên tắc vốn vay là nguồn vốn sử dụng tạm thời, bên cho vay có thể áp dụng biện pháp bảo đảm tài sản hình thành tương lai đối với tài sản hình thành từ vốn vay. Để thực hiện tốt công tác này, cán bộ tín dụng phải có kinh nghiệm, năng lực nhất định, sẵn sàng tham gia tháo gỡ khó khăn của bên vay cũng như kịp thời có các biện pháp xử lý phù hợp, ngăn chặn hậu quả xấu (mất vốn) xảy ra.

Thứ ba, kiểm tra, giám sát cho vay, giám sát công tác thu hồi nợ

Có thể nói, công tác kiểm tra, giám sát là khâu yếu nhất trong quy trình thực hiện HĐCV của các TCTD như các kết luận thanh tra ngành ngân hàng thường đề cập.

Công việc theo dõi, đôn đốc thực hiện nghĩa vụ của bên vay do nhân viên, cán bộ tín dụng hoặc các bộ phận chuyên môn thực hiện thông qua các hoạt động kiểm tra, giám sát bao gồm: kiểm tra tài liệu, chứng từ do bên vay cung cấp; giám sát việc sử dụng vốn vay đúng mục đích, tuân thủ các cam kết hợp đồng, tuân thủ quy định của pháp luật. Đi kèm theo đó, các TCTD phải có phương án xử lý cụ thể. Để thực hiện


nghiệp vụ này, TCTD phải thường xuyên sử dụng bộ phận kiểm tra độc lập, bảo đảm khách quan, chính xác. Trường hợp thấy có nguy cơ rủi ro, TCTD phải áp dụng các biện pháp nghiệp vụ, pháp lý: ngưng giải ngân; thay đổi biện pháp, bổ sung tài sản bảo đảm,… thay vì đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng không có căn cứ rõ ràng, gây tâm lý ức chế cho bên vay, ảnh hưởng đến uy tín của TCTD.

Công tác giám sát thu hồi nợ phải bảo đảm đúng pháp luật. Những trường hợp khách hàng vay không được chấp thuận cơ cấu lại thời hạn trả nợ, thì TCTD phải nhanh chóng tiến hành xử lý tài sản bảo đảm theo các bước thỏa thuận hoặc theo pháp luật (thu hồi tài sản bảo đảm để phát mãi, khởi kiện ra tòa án, trọng tài), kịp thời ngăn chặn khách hàng tẩu tán tài sản.

Thứ tư, chủ động xử lý tài sản bảo đảm, thu hồi tiền vay

Vận dụng các biện pháp chủ động xử lý tài sản bảo đảm là hết sức cần thiết. Ngay từ đầu (khi ký kết hợp đồng) các TCTD phải dự liệu, ghi rõ trong các điều khoản của HĐCV quyền được lựa chọn phương thức xử lý tài sản bảo đảm và cơ chế thu giữ, bảo quản, khai thác tài sản, xác định giá trị tài sản khách quan. Trường hợp có căn cứ pháp lý phát sinh khoản nợ đến hạn chưa thanh toán hoặc các khoản lãi, phí, trách nhiệm bồi thường thiệt hại (nếu có), TCTD tiến hành ngay các bước xử lý tài sản bảo đảm như thỏa thuận. Nếu phải đưa vụ việc ra tòa án, trọng tài giải quyết tranh chấp, các TCTD cần cân nhắc hiệu quả, rủi ro về pháp lý, kể cả dự liệu các chi phí (án phí, phí giám định, phí luật sư,...) cho việc tranh tụng.

Trong giai đoạn tố tụng kéo dài này, bên cho vay (nguyên đơn) cần yêu cầu tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để kê biên, phong tỏa tài sản của bên vay (bị đơn dân sự) tương ứng với khoản nợ, nhưng chủ yếu là những tài sản chưa được áp dụng thủ tục bảo đảm nếu TCTD xét thấy tài sản đã được bảo đảm không đủ để thực hiện các nghĩa vụ thanh toán (mục đích là nhằm ngăn chặn hành vi chuyển dịch quyền sở hữu, giữ nguyên hiện trạng sử dụng tài sản), để bảo đảm công tác giải quyết tranh chấp và thi hành án (thi hành nghĩa vụ trả nợ theo phán quyết của tòa án).

Tóm lại, dựa trên các quy trình thực hiện HĐCV chuẩn mực được thiết kế ban đầu, các TCTD kịp thời phân tích, đánh giá những rủi ro và đưa ra những giải pháp cụ thể để khoản vay an toàn, hiệu quả hơn. Ngay cả nếu có thiếu sót khi xét duyệt cho vay, cán bộ tín dụng cũng có thể kịp thời khắc phục, xử lý, hạn chế thiệt hại. Thực hiện những giải pháp này chính là để góp phần hoàn thành một quy trình tín dụng an toàn, hiệu quả, đóng góp tích cực trong công tác xử lý nợ còn nhiều tồn đọng, bất cập.

4.2.2. Xây dựng, tuân thủ quy định nội bộ về cho vay của tổ chức tín

dụng

Quy định nội bộ về cho vay, quản lý tiền vay được luật hóa (theo Điều 22

Thông tư số 39/2016/TT-NHNN) là bước tiến mạnh mẽ của pháp luật ngân hàng, khẳng định nguyên tắc tự chủ trong kinh doanh được Hiến pháp ghi nhận, củng cố thêm những luận điểm khẳng định nền kinh tế thị trường tự do của nước ta.

Xem tất cả 232 trang.

Ngày đăng: 09/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí