Nội dung quy định nội bộ về cho vay tương đối rộng, không đơn thuần chỉ dừng lại ở quy trình cho vay như thường thấy trong các quyết định nội bộ của TCTD. Đó còn là quyết định phân công nhiệm vụ của từng đơn vị, cá nhân của TCTD để làm rõ phạm vi, trách nhiệm thực hiện quy trình này.170 Đến nay, các nghiên cứu về ngân hàng vẫn chưa đi sâu làm rõ trách nhiệm của cán bộ, nhân viên tín dụng, những người quản lý, điều hành của TCTD thực hiện giao dịch trái với quy định nội bộ về cho vay của TCTD. Bởi lẽ, phạm vi áp dụng, và trách nhiệm của các chủ thể theo quy định này vẫn còn mới mẻ trong thực tiễn. Nhưng có thể thấy trong kinh doanh nói chung, quy định về điều lệ, quy chế nội bộ của doanh nghiệp luôn luôn có giá trị bắt buộc tuân thủ thực hiện đối với thành viên của doanh nghiệp đó.
Điểm chung của các quy định nội bộ trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là lợi ích của nhà đầu tư. Song, quy định nội bộ cho vay trong lĩnh vực ngân hàng có nội dung rộng hơn rất nhiều, trong đó quyền lợi của người gửi tiền được bảo đảm bằng việc xác định rõ phạm vi điều chỉnh cho các giao dịch vay (trong pháp luật doanh nghiệp, quy định nội bộ về ký kết hợp đồng kinh tế chỉ giới hạn ở thẩm quyền theo hạn mức tài sản doanh nghiệp).
Với quy định TCTD phải báo cáo cho NHNN trong vòng 10 (mười) ngày làm việc kể từ ngày ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung (khoản 3, Điều 22 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN), pháp luật ngân hàng khẳng định, nâng cao giá trị pháp lý của quy định nội bộ ngân hàng nói chung, quy định nội bộ về cho vay nói riêng, thể hiện những ưu điểm khi cho vay, đó là: Tạo cơ hội cho các TCTD chủ động tổ chức, thực hiện giao dịch cho vay, đồng thời cũng tăng cường trách nhiệm của các cán bộ, nhân viên ngân hàng trong hoạt động này.
Quy định nội bộ của một TCTD bao gồm cả: quy định nội bộ về cho vay của TCTD; quy định về tổ chức, hoạt động của hội đồng tín dụng, có thẩm quyền phê duyệt, quyết định cho vay. Song, trách nhiệm pháp lý của những cá nhân thành viên trong hội đồng này đến đâu theo tác giả cũng cần phải được TCTD quan tâm, cụ thể hóa. Trách nhiệm này không thể dựa trên các quy định nội bộ chung chung, thiếu cơ chế pháp lý thực thi cụ thể sẽ dẫn đến sự tùy tiện khi áp dụng, khó xác định phạm vi, mức độ trách nhiệm cụ thể.
Ví dụ: Trong vụ án: “Phạm Công D và đồng phạm” vừa được xét xử, tòa án các cấp đã đặt ra trách nhiệm hình sự đối với các cá nhân là thành viên Hội đồng tín dụng ngân hàng trong việc xét duyệt các khoản cho vay trái pháp luật. Theo đó, ngày 28/12/2012, Hội đồng tín dụng Ngân hàng thương mại cổ phần ĐT (Nay là Ngân hàng thương mại TNHH MTV XDVN) thống nhất cho Công ty TNHH MTV Thương mại Xây dựng Dịch vụ TQ vay 370 tỷ đồng và Công ty TNHH MTV Thương mại Dịch vụ ĐHP để cho vay 280 tỷ đồng theo các phương án kinh doanh và phương án trả nợ, thời
170 Xem thêm: Quyết định số 4257/QĐ-VP ngày 28/8/2008 của Ngân hàng BIDV về trình tự, thủ tục cấp tín dụng đối với khách hàng là doanh nghiệp
hạn vay 12 tháng, lãi suất vay 15%/năm nhưng sau đó không thu hồi được vốn vay, bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Vi phạm các quy định về cho vay trong hoạt động của các TCTD” theo Điều 179 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 (nay là Điều 206 Bộ luật hình sự năm 2015, “Tội vi phạm quy định trong hoạt động của các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài”).171
Có thể bạn quan tâm!
- Quy Định Về Cơ Cấu Lại Thời Hạn Trả Nợ, Quyền Chấm Dứt Cho Vay Thu Hồi Vốn Trước Hạn Theo Hợp Đồng Cho Vay
- Xử Lý Tài Sản Theo Hợp Đồng Cho Vay Và Hợp Đồng Bảo Đảm
- Nhu Cầu Phát Triển Các Dịch Vụ Cho Vay Thực Hiện Hiệu Quả Các Mục Tiêu
- Kiến Nghị Hoàn Thiện Quy Định Của Pháp Luật Về Hợp Đồng Cho Vay
- Nâng Cao Trách Nhiệm Bên Vay Trong Việc Đánh Giá Năng Lực Tài Chính Để Bảo Vệ Quyền Lợi Của Bên Vay Tiêu Dùng
- Nếu Cần Thiết Phải Sửa Đổi, Bổ Sung Pháp Luật Về Hợp Đồng Cho Vay, Theo Quý Vị Vấn Đề Nào Cần Quan Tâm Nhất (Vui Lòng Đánh Số Thứ Tự Theo Mức
Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.
Xét xử vụ án hình sự trên, Bản án sơ thẩm số 332/2016/HSST ngày 9/9/2016 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh đã nhận định: Hội đồng tín dụng Ngân hàng tham gia phê duyệt, cấp tín dụng 02 hồ sơ vay của Công ty ĐHP và Công ty TQ, chấp nhận sử dụng tài sản bảo đảm dựa theo chứng thư thẩm định giá chưa phù hợp, gây thiệt hại là 470.000.000.000 đồng. Sau khi thành viên Hội đồng tín dụng Ngân hàng có kháng cáo, tại phiên tòa xét xử phúc thẩm (từ ngày 27/12/2017 đến ngày 24/1/2017), Tòa án đã tuyên giữ nguyên nội dung phán quyết, tiếp tục khởi tố và đưa ra xét xử các thành viên Hội đồng tín dụng.
Bình luận về vụ án hình sự này, tác giả không đi sâu đề cập, phân tích đúng sai của hành vi xét duyệt hai khoản vay. Vì sau khi xét xử tại tòa án, các thành viên Hội đồng tín dụng khiếu nại với lý do: họ không có chức năng cho vay; không phỏng vấn, tiếp xúc với bên vay mà chỉ dựa trên tài liệu, chứng từ do chi nhánh ngân hàng trình xét; quy định nội bộ về cho vay của ngân hàng không điều chỉnh hành vi của Hội đồng tín dụng Ngân hàng ĐT,… Nhưng có thể thấy, quan điểm của các cơ quan tố tụng dựa trên hành vi xét duyệt cho vay không đánh giá đúng tài liệu chứng thư thẩm định giá trái pháp luật với kết quả sau đó bị mất vốn (mối quan hệ nhân quả), để truy cứu trách nhiệm hình sự là có căn cứ.172
Về phương diện nghiệp vụ, tại các TCTD, các khoản cho vay thường do hội đồng tín dụng (thành viên là những người lãnh đạo ở vị trí chủ chốt của TCTD) quyết định. Nếu không phân định vai trò chức năng của thành viên hội đồng như hiện nay, dễ dẫn đến quy chụp trách nhiệm của tất cả các thành viên tham gia xét duyệt khoản vay bị mất vốn. Điều này không phù hợp với nguyên tắc quản lý, kiểm soát cho vay, vì mỗi thành viên của hội đồng này chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi nghiệp vụ, chuyên môn của mình nếu có sai phạm. Vì vậy, quy định nội bộ của TCTD cần phải thể hiện rõ phạm vi trách nhiệm này.
Tuân thủ quy định nội bộ về cho vay của TCTD, cán bộ, nhân viên tín dụng có quyền từ chối phê duyệt, từ chối quyết định cho vay nếu khách hàng không đáp ứng điều kiện vay. Do đó, họ được quyền khiếu nại đến các cơ quan thẩm quyền về những quy định nội bộ cho vay không phù hợp, trái pháp luật, mang tính áp đặt, có nguy cơ xảy ra rủi ro phải gánh chịu trách nhiệm nếu áp dụng.
171 Bản án hình sự sơ thẩm số 332/2016/HSST ngày 9/9/2016 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh, tr. 52-56; 202; 231
172 Xem thêm: Bộ Công an, Kết luận điều tra vụ án hình sự số 02/C46 (P10), ngày 10/1/2018, tr. 17. Vụ án sau đó được xét xử cấp sơ thẩm từ ngày 2-4/5/2018, tuyên án tù từ 3 năm cho hưởng án treo đến 7 năm tù đối với toàn bộ thành viên của Hội đồng tín dụng ngân hàng này
Đối với hội đồng tín dụng của ngân hàng, việc xét duyệt các khoản vay không đủ điều kiện vay vốn, chỉ dựa trên các tài liệu do chi nhánh ngân hàng đệ trình mà không nghiêm túc tiến hành kiểm tra, đánh giá, đối chiếu quy định của pháp luật để dẫn đến sai phạm đương nhiên phải bị xử lý trách nhiệm. Mức độ trách nhiệm đến đâu tùy thuộc vào tính chất, mức độ sai phạm, năng lực, thẩm quyền, trách nhiệm từng thành viên trong hội đồng, ghi rõ trong các quy định nội bộ và quy định của pháp luật.
Tóm lại, TCTD cần thực hiện giải pháp xây dựng quy định nội bộ về cho vay chuẩn mực, trong đó phân định cụ thể phạm vi, trách nhiệm của từng thành viên tham gia cấp tín dụng để bảo đảm thực thi, áp dụng đối với cán bộ, nhân viên ngân hàng. Giải pháp này sẽ phát huy những tích cực, khẳng định ý nghĩa của quy định nội bộ về cho vay, nâng cao trách nhiệm của từng cán bộ tín dụng, những người làm công tác quản lý trong ngân hàng, làm rõ lỗ hổng của quy trình cho vay, trách nhiệm về sau nếu cá nhân, tập thể có sai phạm.
4.2.3. Một số giải pháp khắc phục những rời rạc, thiếu ràng buộc trong quan hệ giữa hợp đồng cho vay với hợp đồng bảo đảm
Quy định của pháp luật về quan hệ giữa HĐCV và hợp đồng bảo đảm còn rời rạc, chưa thống nhất trong thực tiễn áp dụng như luận án đã nhận diện (mục 3.2.2.2). Tình trạng này nếu tiếp tục xảy ra sẽ tạo nguy cơ, rủi ro cho các TCTD khi cho vay, gây mất an toàn vay, vì vậy tác giả đề xuất các giải pháp để khắc phục như sau:
Thứ nhất, giải pháp khắc phục tình trạng bên vay ký nhiều thỏa thuận vay, nhưng chỉ bảo đảm cố định một loại tài sản
Như luận án đề cập, tình trạng này xảy ra phổ biến, nguyên nhân là do nhận thức, hiểu biết pháp luật của cán bộ tín dụng còn hạn chế, chủ quan. Thêm vào đó, thủ tục giao dịch bảo đảm rườm rà phức tạp nên khi bên vay thay đổi nhu cầu tín dụng, TCTD thường không kiểm tra, xem xét, đánh giá lại mối quan hệ pháp lý giữa hai hợp đồng này dẫn đến sai sót.
Vì vậy, TCTD ngay từ khi ký kết HĐCV phải dự liệu điều kiện và khả năng vay vốn của bên vay, thiết lập hợp đồng bảo đảm cho cùng một tài sản theo hướng mở rộng phạm vi bảo đảm, không chỉ gói gọn một hợp đồng với một khoản tín dụng được cấp tại thời điểm đó. Phạm vi bảo đảm phải bao gồm các khoản nợ phát sinh từ hợp đồng và các phụ lục hợp đồng vay được ký kết sau ngày ký hợp đồng bảo đảm. Cho dù bên vay thay đổi nhu cầu tín dụng, ký kết nhiều phụ lục hợp đồng vay, nhưng vẫn trong giới hạn dư nợ tín dụng cho phép, khi đó vẫn ràng buộc nghĩa vụ trả nợ của bên bảo đảm. Như vậy, với giải pháp này, phạm vi bảo đảm mở rộng thay vì cố định một thỏa thuận cụ thể, cho dù khoản nợ đó phát sinh sau khi ký kết hợp đồng vay ở bất kỳ thời điểm tín dụng nào.
Tuy nhiên, cần phân biệt làm rõ phạm vi, trách nhiệm bảo đảm đối với nhiều hợp đồng vay khác nhau. Ở trường hợp này, nếu có sự thay đổi chủ thể ký kết hợp
đồng, hoặc các bên có thỏa thuận về phạm vi bảo đảm nghĩa vụ, không bao gồm những hợp đồng vay phát sinh ngoài ý chí của bên bảo đảm, trái pháp luật này, đương nhiên TCTD không được quyền yêu cầu bên bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo đảm.
Với những điều kiện ràng buộc chặt chẽ này, giải pháp sẽ khắc phục tình trạng bên vay nhiều lần xin cấp tín dụng. Ở trường hợp này, chỉ cần ngân hàng đối chiếu làm rõ phạm vi, giới hạn bảo đảm không vượt quá mức cho phép được ghi trong hợp đồng bảo đảm, khi đó khoản vay vẫn được bảo đảm, an toàn cho dù ngân hàng cho vay nhiều lần hoặc ký kết nhiều phụ lục sau thời điểm ký cam kết bảo đảm.
Thứ hai, bảo đảm quyền lợi của ngân hàng với tư cách là bên ngay tình khi nhận tài sản bảo đảm, cho dù tài sản đó có nguồn gốc tội phạm
Hành vi tạo lập các giao dịch vay giả tạo, trái pháp luật, nhận chuyển nhượng tài sản bảo đảm trái pháp luật để hợp thức hóa thành tài sản bảo đảm có đủ các tài liệu, chứng từ hợp pháp gắn với trách nhiệm xử lý tội phạm theo thủ tục tố tụng hình sự. Trên “đường đi” của tài sản chiếm đoạt thông thường các giao dịch lưu chuyển tiền tệ khá phức tạp. Tội phạm không chỉ đơn thuần sử dụng vốn vay đưa vào kinh doanh, đầu tư của doanh nghiệp, mà còn sử dụng tiền chiếm đoạt, phân tán dưới các hình thức giao dịch khác, thậm chí chỉ để trả nợ cá nhân.
Trong thủ tục tố tụng này, việc thu hồi tài sản bị chiếm đoạt (tài sản được dùng bảo đảm khoản vay, với đặc điểm là “vật chứng” của vụ án hình sự) cần được xem xét dựa trên đặc thù của quan hệ cho vay, trong đó yếu tố an toàn của hệ thống tín dụng là nhân tố ưu tiên hàng đầu như đã được luận án đề cập, đi sâu phân tích.
Ngân hàng với tư cách là công ty đại chúng, hoạt động vì nhiều mục tiêu kinh tế, xã hội khác nhau, khách hàng chiếm số đông, nên không có thời gian và điều kiện để xác minh nguồn gốc tài sản để phòng ngừa. Do vậy, các cơ quan tố tụng hình sự không thể dựa trên sự lưu chuyển tiền tệ (flow cash), đánh giá tài sản bị chiếm đoạt, để xử lý khắc phục hoàn trả chủ sở hữu hợp pháp, từ đó tự ý hủy bỏ hợp đồng bảo đảm, thu hồi tài sản bảo đảm có nguồn gốc tội phạm, gây thiệt hại cho các TCTD.
Ở trường hợp này, yếu tố ngay tình, hợp pháp được pháp luật ghi nhận (khoản 2, Điều 133 BLDS năm 2015) cần được đặt ra áp dụng đối với lĩnh vực ngân hàng có sự khác biệt đối với các lĩnh vực dân sự, kinh doanh khác, để bảo đảm duy trì cho các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng vay được giao kết hợp pháp, ổn định, an toàn.
Tương tự như vậy, kể cả khi các đối tượng (bên vay, bên bảo đảm) có sử dụng khoản tiền nguồn gốc tội phạm tất toán một khoản vay cụ thể, khi đó số tiền này đã hòa vào nguồn vốn của ngân hàng để cho các khách hàng khác vay tiếp. Trong trường hợp này, cần xem khoản tiền ngân hàng đã giải ngân là căn cứ để các cơ quan pháp luật thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, khắc phục hậu quả, cho dù tài sản đó được bên vay sử dụng để xác lập các quan hệ kinh tế, dân sự khác.
Tóm lại, giải pháp pháp lý trên được cụ thể hóa trong các nghị quyết của ngành tòa án, án lệ, hình thành thói quen khi cho vay đối với TCTD; đóng góp tích cực, hiệu quả, tạo sự liên kết, ràng buộc bảo đảm tài sản khoản vay. Thông qua các giải pháp này, các TCTD chủ động xây dựng các mẫu hợp đồng hợp pháp, hạn chế thấp nhất rủi ro có thể xảy ra. Đó còn là giải pháp giúp cho các cơ quan tố tụng đánh giá tội phạm, xử lý vật chứng trong các giao dịch cho vay thuộc lĩnh vực ngân hàng.
4.2.4. Nhận diện và xử lý những trường hợp áp dụng không đúng các quy định về chế tài do vi phạm hợp đồng cho vay để bảo vệ quyền lợi của bên vay
Từ thực tiễn ký kết HĐCV và giải quyết tranh chấp án tín dụng tại tòa án minh chứng cho thấy: Các cấp tòa án thường áp dụng sai các quy định về chế tài do vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền vay và lãi suất khá phổ biến. Nhiều quyết định của tòa án tính lãi trùng lắp trong cùng một hành vi vi phạm gây thiệt hại cho bên vay. Luận án nhận diện 03 (ba) hành vi sai phạm khi áp dụng các biện pháp chế tài do vi phạm HĐCV, đồng thời đề xuất những giải pháp cụ thể khắc phục tình trạng này như sau:
Thứ nhất, vừa chế tài phạt chậm trả lãi vừa chuyển nợ quá hạn
Hành vi vừa phạt chậm trả lãi, vừa chuyển nợ quá hạn xảy ra khá phổ biến trong thực tiễn xét xử, đã được Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao ban hành Quyết định Giám đốc thẩm số 156/GĐT-DS ngày 31/7/2012 chỉ ra sai phạm, với lý do: Các cấp tòa tuyên buộc phía bị đơn (bên vay) gánh chịu lãi suất nợ quá hạn, vừa phải thanh toán lãi phạt không quy đúng quy định.173 Thật vậy, hành vi phạt chậm trả lãi chỉ áp dụng đối với khoản lãi phải đến hạn thanh toán theo tiến độ hợp đồng được ký kết. Mức lãi suất này do TCTD và khách hàng thỏa thuận nhưng không vượt quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả, tương ứng với thời gian chậm trả (khoản 4, Điều 13 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN).
Áp dụng hình thức phạt chậm trả lãi, thông thường chỉ khi TCTD tiếp tục cho vay những khách hàng có điều kiện tiếp tục thực hiện hợp đồng. Đối với trường hợp chuyển nợ quá hạn, hành vi này chỉ áp dụng khi bên vay đến hạn thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền gốc nhưng không thực hiện trả nợ. Trường hợp TCTD đã chuyển nợ quá hạn, thì TCTD đó không được phép áp dụng bổ sung biện pháp chế tài chậm trả lãi. Nếu TCTD trong quá trình thực thi hợp đồng, hoặc tòa án khi xét xử vừa phạt chậm trả lãi, đồng thời chuyển nợ quá hạn là không đúng pháp luật.
Thứ hai, vừa phạt vi phạm hợp đồng vay vừa chuyển nợ quá hạn
Biện pháp chế tài phạt vi phạm hợp đồng vay, áp dụng khi một bên có hành vi vi phạm hợp đồng theo thỏa thuận giữa các đương sự (TCTD và khách hàng) hoặc
173 Theo phán quyết của Bản án phúc thẩm số 105/2013/KDTM-PT ngày 18/01/2013, Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh. Quyết định của tòa án cấp này về lãi quá hạn là: 32.632,29 USD; lãi phạt là 2.441,57 USD (đô la Mỹ). Quyết định Giám đốc thẩm số 32/2014/KDTM-GĐT ngày 31/7/2014 của Tòa kinh tế Tòa án nhân dân tối cao sau đó đã hủy bỏ bản án trên. Xem tại: Phụ lục 03 – Tóm lược những vụ án tranh chấp HĐCV điển hình (Vụ án thứ 06)
theo luật định. Về nguyên tắc, thỏa thuận chế tài vi phạm hợp đồng cũng phải phù hợp với quy định của pháp luật, khi đó mới làm phát sinh trách nhiệm của bên vi phạm. Chính sự thiếu rõ ràng, cụ thể giữa các quy định về nghĩa vụ hợp đồng theo thỏa thuận hoặc theo luật định là nguyên nhân dẫn đến tình trạng các tòa án có những quyết định, ban hành các phán quyết chưa đúng, gây thiệt hại đến quyền lợi của bên vay.
Ví dụ: Trong một vụ kiện tranh chấp HĐTD, tòa án tuyên xử như sau: “Buộc Công ty cổ phần Dệt LA trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần KTVN tính đến ngày 16/5/2013 là 129.921.366.138 đồng, trong đó… nợ lãi trong hạn 83.388.899 đồng, nợ lãi quá hạn 21.127.928.821 đồng, tiền phạt 34.396.255.603 đồng…”174.
Ở tình huống pháp lý này, tòa án chấp nhận một khoản tiền phạt cùng với quyết định chuyển nợ quá hạn của TCTD. Song, theo tác giả, lãi suất nợ quá hạn được xem là khoản phạt vi phạm đối với dạng hợp đồng có đối tượng là vốn tiền tệ, đã bao gồm cả những thiệt hại vật chất của TCTD (đó là khoản lợi nhuận bỏ lỡ do không thu được lãi suất từ khoản tiền vay chậm thu hồi), nên cho dù các bên có thỏa thuận, ghi trong HĐCV điều khoản phạt vi phạm hợp đồng dựa trên số tiền gốc chậm thanh toán, thì cũng phải xem đây là thỏa thuận trái pháp luật.
Thứ ba, vừa phạt vi phạm, vừa bồi thường thiệt hại cho bên cho vay
Điều khoản hợp đồng cho phép TCTD yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với bên vay không phổ biến. Song, trên thực tế, rải rác trong các HĐCV được ký kết đều có đề cập đến.
Ví dụ: Hợp đồng tín dụng số 10/2010/HĐTD 1-OCEANBANK03 ký kết giữa Ngân hàng thương mại cổ phần ĐD (Chi nhánh Sài Gòn) với Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất thương mại dịch vụ NY,175 điểm g, khoản 9.1, Điều 9 có ghi: “Phải bồi thường mọi thiệt hại cho bên B nếu vi phạm hợp đồng này” (“bên B” trong hợp đồng này là “bên cho vay”). Một hợp đồng khác còn ghi cụ thể các khoản bồi thường thiệt hại: “tiền lãi, chi phí đã trả hoặc phải trả cho các khoản vay để gánh vác các khoản tiền không được thanh toán của khách hàng”176.
Thỏa thuận về bồi thường thiệt hại ghi trong điều khoản hợp đồng vay nêu trên là trái pháp luật. Thiệt hại của TCTD đối với tiền gốc chậm thu hồi như đã được luận án luận giải chính là tiền lãi thay vì phải cho đối tượng khách hàng khác vay. Việc TCTD thỏa thuận áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại bên cạnh lãi suất nợ quá hạn là không đúng. Gặp những trường hợp này, nếu TCTD có yêu cầu giải quyết bồi thường thiệt hại thì tòa án phải tuyên xử bác bỏ. Vấn đề này đã được pháp luật ngân hàng hiện nay nhìn nhận khắc phục và quy định cụ thể tại khoản 1, Điều 25 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN.
174 Bản án số 04/2013/KDTM-ST ngày 16/5/2013 của Tòa án nhân dân huyện TT, tỉnh LA. Bản án phúc thẩm số 25/2013/KDTM-PT của Tòa án nhân dân tỉnh LA xét xử sau đó đã giữ nguyên toàn bộ nội dung của bản án sơ thẩm này.
175 Bản hợp đồng này do phía ngân hàng soạn thảo, chưa được hai bên chính thức ký kết
176 Xem: Mục 11, Phụ lục Hợp đồng tín dụng số 2000-LAV-201101382 ngày 14/3/2011 giữa Ngân hàng thương mại cổ phần Xuất nhập khẩu VN với Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất Thương mại Cao su TC
Từ những nhận định được dẫn chứng bằng thực tiễn xét xử nêu trên, luận án đề xuất các giải pháp khắc phục tình trạng này như sau:
Một là, cần nhận diện, nghiêm cấm các TCTD chủ động soản thảo hợp đồng vay có nội dung điều khoản trái pháp luật, bất lợi cho bên vay tương tự như hành vi nêu trên, đồng thời có biện pháp kiểm tra thường xuyên, chế tài xử phạt hành chính đối với các TCTD cố tình vi phạm;
Hai là, đối với khoản tiền bên vay thanh toán vượt quá khoản tiền lẽ ra phải thanh toán thì được trừ vào tiền nợ gốc, phần dôi dư nếu có phải hoàn trả cho bên vay. Đây phải là giải pháp xử lý, hạn chế việc bên vay đi đòi lại tiền, giảm thiểu đáng kể số tiền nợ họ phải trả.
Ba là, ngành tòa án cần ban hành nhiều án lệ nhằm tạo sự đồng thuận thống nhất khi áp dụng, giải quyết tranh chấp. Đó còn là định hướng để các TCTD tham khảo, áp dụng, tránh tình trạng sai phạm như xảy ra.
Làm rõ các nguyên tắc tính lãi không chỉ bảo đảm tính thống nhất khi thực thi. Những giải pháp này nếu được thực hiện cũng sẽ góp phần hạn chế tình trạng các TCTD lạm dụng cơ chế thỏa thuận hợp đồng để ban hành các điều khoản khung trái pháp luật; bảo vệ quyền lợi bên vay; tạo niềm tin cho các tổ chức, cá nhân tìm đến TCTD khi gặp khó khăn về vốn vay.
4.2.5. Bảo đảm quyền yêu cầu hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay tại tòa án, trọng tài
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, pháp luật về quyền tài sản, Điều 18 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN cụ thể hóa nghĩa vụ “hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay” như một nhân tố đặc thù, cơ bản trong quan hệ HĐCV, để bảo vệ quyền tài sản của tổ chức, cá nhân. Về lý luận, TCTD phải thu hồi tiền vay đầy đủ để hoàn trả cho người gửi tiền, nhà đầu tư. Song, vận dụng quy định về thời hiện khởi kiện khi TCTD yêu cầu khách hàng thực hiện nghĩa vụ này, vẫn còn những quan điểm khác biệt.
Cho đến nay vẫn chưa có cơ sở lý luận đầy đủ khẳng định: Quyền yêu cầu hoàn trả tiền gốc và lãi tiền vay có được áp dụng quy định thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 (ba) năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu (TCTD) biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm (Điều 429 BLDS năm 2015). Từ thực tiễn một số vụ án tranh chấp HĐCV bị tòa án cấp trên tuyên hủy bỏ vì áp dụng không đúng quy định về thời hiện khởi kiện, luận án phân tích và có kiến nghị về vấn đề này như sau:
Pháp luật thực định hiện hành tiếp tục ghi nhận thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp hợp đồng nhằm ổn định trật tự kinh doanh, không để tranh chấp kéo dài gây bất ổn xã hội. Tranh chấp HĐCV là một dạng tranh chấp hợp đồng dân sự hoặc kinh doanh, thương mại cũng không phải là ngoại lệ.
Tranh chấp HĐCV hiểu theo nghĩa rộng là những mâu thuẫn, xung đột quyền lợi của các bên trước và sau khi ký kết hợp đồng vay. Do đó, tranh chấp HĐCV bao
gồm nhiều nội dung yêu cầu khác nhau, cần được các TCTD phân biệt, xác định cụ thể trước khi xúc tiến các bước thủ tục khởi kiện ra tòa án, trọng tài (ví dụ: tranh chấp về điều kiện giải ngân, tranh chấp phí tín dụng, yêu cầu tiếp tục thực hiện HĐCV,…).
Theo lẽ thông thường, nghĩa vụ hoàn trả nợ (bao gồm nợ gốc và lãi tiền vay) là nghĩa vụ bắt buộc đương nhiên của bên vay. Nếu bên vay không hoàn trả trả nợ thì khoản nợ được chuyển sang nợ quá hạn (bên vay phải chịu thêm khoản lãi phạt) cho đến khi bên vay trả hết nợ.177 Do vậy, nếu việc khởi kiện của nguyên đơn (TCTD) không thể hiện rõ nội dung, phạm vi khởi kiện, chỉ ghi nhận chung chung trong đơn khởi kiện là tranh chấp “hợp đồng cho vay” hoặc “hợp đồng tín dụng” khi đó, tòa án có thể áp dụng quy định thời hiệu khởi kiện 03 (ba) năm để từ chối thụ lý yêu cầu giải quyết tranh chấp (Áp dụng trong khoảng thời gian 03 (ba) năm, giữa các bên không có giao dịch nào phát sinh làm thay đổi thời hiệu. Ví dụ: Ngân hàng bỏ mặc khoản nợ cho dù bên vay có điều kiện hay không có điều kiện thanh toán nợ).
Trường hợp, TCTD chỉ khởi kiện yêu cầu bên vay hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay thì tòa án không áp dụng quy định về thời hiệu khởi kiện để bác đơn kiện (với lý do hết thời hiệu) vì pháp luật chuyên ngành ngân hàng quy định rõ: Khách hàng có nghĩa vụ “hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng hạn”, kèm theo đó, TCTD được quyền “chuyển dư nợ sang nợ quá hạn” cho đến khi trả hết nợ. Cho dù đã hết thời hạn 03 (ba) năm, kể từ thời điểm phát sinh nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng, hay thời điểm cuối cùng các bên thống nhất trả nợ, các TCTD vẫn có quyền yêu cầu, khởi kiện bên vay thực hiện nghĩa vụ hoàn trả tiền vay và lãi suất cho đến khi hết nợ.
Có quan điểm hiện nay cho rằng: TCTD chỉ có thể đòi lại tiền gốc không tính lãi suất, từ đó tăng thêm gánh nặng cho các TCTD khi xử lý nợ xấu,178 là chưa phù hợp với các quy định về xử lý nợ. Thật vậy, theo quan điểm tác giả, pháp luật tố tụng hiện hành đã dự liệu đặt ra những trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện để bảo đảm quyền tài sản, lợi ích của các bên tham gia giao dịch dân sự. Điều 155 BLDS năm 2015 quy định, không áp dụng thời hiệu khởi kiện trong các trường hợp sau: yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản; yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác; tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của luật đất đai; trường hợp khác do luật quy định. Theo tác giả, cần phải dựa vào những đặc thù của quan hệ cho vay để làm sáng tỏ. Trong đó, nghĩa vụ hoàn trả tiền vay và lãi suất là yêu cầu bắt buộc bên vay phải thực hiện, cho dù khoảng thời gian thực hiện quyền này vượt quá thời hạn pháp luật quy định như các giao dịch dân sự, kinh doanh bình thường khác.
Thực tiễn xét xử, nhiều tòa án vẫn áp dụng quy định trên để tuyên bác bỏ các quyết định của tòa án cấp dưới đã tuyên xử hết thời hiệu kiện giải quyết tranh chấp
177 Các tác giả nghiên cứu vấn đề này cũng đồng quan điểm, theo đó “các nghĩa vụ này của bên vay sẽ chấm dứt khi nào chúng đã được bên vay thực hiện xong trên thực tế”. Xem tại tài liệu: Trường Đại học luật Hà Nội (2014), Sđd (42), tr.171
178 Viên Thế Giang (2016), Quy định mới về thời hiệu khởi kiện và nguy cơ gia tăng nợ xấu. Nguồn: https://www.sbv.gov.vn, truy cập ngày 11/3/2018