- Tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhập NHTM trong trường hợp bắt buộc thực hiện:
Thực hiện mua lại, sáp nhập ngân hàng không chỉ mang tính tự nguyện của các ngân hàng mà còn là biện pháp thực hiện tái cấu trúc ngân hàng, được nhiều quốc gia tiến hành để xử lý các ngân hàng yếu kém, giúp hệ thống ngân hàng không đổ vỡ [120, tr.4]. Các nước trên thế giới khi tiến hành tái cấu trúc hệ thống ngân hàng đều tiến hành rà soát lại các văn bản pháp luật, xây dựng các phương án can thiệp của Chính phủ và NHTW, để đảm bảo rằng chúng không vi phạm các luật lệ đã ban hành trước đây. Điều này là rất quan trọng bởi việc Chính phủ, NHTW can thiệp cho thấy là khách quan, minh bạch, tất cả đều vì lợi ích chung của quốc gia, của nền kinh tế, không có một động cơ nào khác. Căn cứ vào các văn bản pháp lý đó, Chính phủ và NHTW sẽ cần phải xây dựng một quy trình với những tiêu chí rõ ràng ngay từ đầu về mức độ can thiệp của nhà nước cho từng trường hợp ngân hàng có vấn đề một cách cụ thể [120, tr.5].
Theo thông lệ quốc tế và quy định pháp luật, các quốc gia thường tiến hành can thiệp thông qua việc mua lại, sáp nhập bắt buộc đối với ngân hàng yếu kém, không đảm bảo tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu, có nguy cơ mất khả năng chi trả, mất khả năng thanh toán, không có khả năng tự tái cơ cấu, không tự thực hiện sáp nhập, hợp nhất tự nguyện được, có khả năng xảy ra đổ vỡ ảnh hưởng đến an toàn cả hệ thống. Việc thực hiện mua lại, sáp nhập bắt buộc được thực hiện trên cơ sở cơ quan quản lý ngân hàng tiến hành phân loại ngân hàng dựa theo các chuẩn mực quốc tế. Những ngân hàng không đáp ứng đủ các tiêu chuẩn an toàn bị buộc để cơ quan quản lý ngân hàng giới thiệu những NHTM lành mạnh ở trong hoặc ngoài nước mua lại, hoặc chỉ định NHTM do nhà nước nắm cổ phần chi phối mua lại, hoặc do chính cơ quan quản lý ngân hàng mua lại. Những ngân hàng gặp khó khăn nhưng có thể phục hồi sẽ được yêu cầu sáp nhập hoặc hợp nhất với nhau. Những ngân hàng được giới thiệu hay chỉ định mua lại thường là những ngân hàng có vốn điều lệ lớn, có tình hình tài chính lành mạnh, kinh nghiệm quản trị tốt, các tỷ lệ an toàn đảm bảo hoạt động ngân hàng theo quy định, quan trọng hơn là những ngân hàng này có khả năng vực dậy các ngân hàng yếu kém sau khi mua lại. Việc Chính phủ mua lại hoặc đầu tư vào vốn cổ phần của các ngân hàng yếu kém là một trong những giải pháp tạm thời cuối cùng đối với các NHTM không có khả năng sáp nhập hoặc hợp nhất. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy hầu hết các nước phát triển đều phải thực hiện nghĩa vụ này. Sau khi tiến hành các biện pháp nhằm khôi phục hoạt động của các ngân hàng
này thì Chính phủ sẽ bán lại cổ phần cho các nhà đầu tư khác [3].
Để tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, Hàn Quốc đưa ra chương trình rà soát theo chuẩn quốc tế, phân loại ngân hàng. Bộ khung tiêu chí được sử dụng để đánh giá hệ thống ngân hàng là PCA (Prompt Corective Action) với những nội dung xoay quanh hệ số an toàn vốn (CAR) của các ngân hàng. Nhóm những ngân hàng yếu kém nhất, không đáp ứng đủ các tiêu chuẩn về an toàn vốn theo Basel (CAR 8%) bị buộc chấm dứt hoạt động, sáp nhập với ngân hàng có tình hình tài chính tốt hơn. Với nhóm ngân hàng thứ hai, dù hệ số CAR 8% nhưng có khả năng phục hồi, được yêu cầu sáp nhập với nhau. Có 5 ngân hàng đã bị Chính phủ Hàn Quốc cho đóng cửa do có tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu dưới 8% (tháng 7/1998), đồng thời Chính phủ yêu cầu các ngân hàng này phải hợp nhất và sáp nhập lại với nhau để đảm bảo đạt được mức an toàn vốn tối thiểu [120, tr.17]. Tại Malaysia và Inđônêsia, khi xác định được mức vốn thực có của các NHTM sau khi đã bù đắp các khoản thiệt hại về nợ xấu và dự phòng, NHTW các nước này đã khuyến khích và sử dụng các biện pháp tăng vốn hoặc buộc phải sáp nhập một số NHTM để đảm bảo mức vốn tối thiểu an toàn cho hoạt động kinh doanh ngân hàng, thậm chí mở rộng hình thức sở hữu nước ngoài trong một thời gian nhất định. Vào tháng 9/1998, Chính phủ Inđônêsia đã buộc 4 NHTM quốc doanh phải hợp nhất lại thành một NHTM mới có tên là Bank Mandiri. Tháng 9/1999, Chính phủ Malaysia công bố kế hoạch phân loại và sáp nhập các NHTM và công ty tài chính thành sáu nhóm ngân hàng lớn [3].
Căn cứ vào những nội dung liên quan đến tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhập đã nêu cùng với yêu cầu xử lý ngân hàng yếu kém, không có khả năng tự phục hồi, tái cơ cấu thì tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhập NHTM trong trường hợp bắt buộc thực hiện là:
(i) Ngân hàng vi phạm nghiêm trọng quy định các giới hạn, các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng (ngân hàng không còn đủ vốn để thực hiện các hoạt động ngân hàng, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu ở dưới ngưỡng an toàn 8%, ngân hàng đã được đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt nhưng không có khả năng tái cơ cấu, khắc phục được, có nguy cơ đổ vỡ, gây mất an toàn trong cả hệ thống ngân hàng);
(ii) Không vi phạm pháp luật cạnh tranh về hành vi tập trung kinh tế sau khi thực hiện mua lại, sáp nhập;
(iii) Đáp ứng yêu cầu về vốn ngân hàng, trong đó yêu cầu về vốn pháp định, yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu sau khi thực hiện mua lại, sáp nhập;
(iv) Đáp ứng yêu cầu về tỷ lệ sở hữu vốn cổ phần sau khi thực hiện mua lại, sáp nhập;
Có thể bạn quan tâm!
- Nội Dung Pháp Luật Về Mua Lại, Sáp Nhập Doanh Nghiệp
- Đặc Điểm Pháp Luật Về Mua Lại, Sáp Nhập Ngân Hàng Thương Mại
- Pháp luật về mua lại và sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay - 8
- Xác Định Giải Quyết Tranh Chấp Khi Mua Lại, Sáp Nhập
- Quy Định Của Pháp Luật Về Mua Lại, Sáp Nhập Ngân Hàng Thương Mại
- Pháp luật về mua lại và sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay - 12
Xem toàn bộ 177 trang tài liệu này.
(v) Đáp ứng yêu cầu về giải quyết quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, người lao động sau khi thực hiện mua lại, sáp nhập; (vi) Có sự chấp thuận mua lại, sáp nhập của cơ quan quản lý có thẩm quyền.
2.2.4.2. Xác định trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập
Trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập NHTM được xác định là trình tự, thủ tục hành chính để các bên tham gia mua lại, sáp nhập phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật. Theo đó trình tự thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM được hiểu là thứ tự các bước tiến hành của các bên tham gia mua lại, sáp nhập và cơ quan thực hiện thủ tục mua lại, sáp nhập trong giải quyết mua lại, sáp nhập NHTM cho tổ chức, cá nhân. Thủ tục thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM được hiểu là trình tự, cách thức thực hiện, hồ sơ và yêu cầu, điều kiện do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định để giải quyết việc mua lại, sáp nhập NHTM liên quan đến cá nhân, tổ chức. So với những quy định về trình tự, thủ tục áp dụng đối với doanh nghiệp thì trình tự, thủ tục áp dụng đối với NHTM có mức độ phức tạp cao hơn. Tại một số nước như Mỹ, Hàn Quốc, Trung Quốc, ngoài việc pháp luật quy định trực tiếp về trình tự, thủ tục thực hiện mua lại, sáp nhập trong các văn bản pháp luật, cơ quan có thẩm quyền còn ban hành Hướng dẫn mua lại, sáp nhập nhằm cung cấp thêm công cụ, thông tin để các bên có cơ sở thực hiện cũng như tạo ra hành lang pháp lý thực hiện thương vụ này.
Căn cứ vào việc mua lại, sáp nhập được thực hiện theo hình thức tự nguyện hay bắt buộc để xác định trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập NHTM. Thông thường, trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập NHTM bao gồm một số bước chính như sau:
- Trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập NHTM theo hình thức thực hiện tự nguyện:
Thứ nhất, trình tự, thủ tục trong việc xây dựng văn bản trình cơ quan có thẩm quyền quyết định của NHTM tham gia mua lại, sáp nhập xem xét hoặc thông qua.
Tại bước này, ngân hàng tham gia mua lại, sáp nhập phối hợp để xây dựng những văn bản theo yêu cầu của pháp luật, thông thường bao gồm có đơn yêu cầu mua lại, sáp nhập, đề án mua lại, sáp nhập, hợp đồng mua lại, sáp nhập và điều lệ hoạt động của NHTM nhận sáp nhập. Ở Mỹ, mỗi đơn yêu cầu sáp nhập được xem xét bởi: a) Các chuyên gia kinh tế và luật sư của các Cơ quan quản lý ngân hàng Liên bang, tính toán những tác động tiềm năng tới mức độ cạnh tranh của vụ sáp
nhập; b) Các quan chức Phòng giám sát và quản lý sẽ đánh giá những ảnh hưởng có thể xảy ra đối với tình hình tài chính và triển vọng tương lai của các ngân hàng có liên quan [136, tr.826]. Pháp luật Mỹ quy định các yêu cầu sáp nhập phải được thông báo trên một tờ báo phổ thông tại địa phương với quy định cụ thể về thời gian, tần suất thông báo. Đề nghị mua lại, sáp nhập sẽ được ban lãnh đạo của mỗi ngân hàng thông qua và cổ đông của mỗi ngân hàng bỏ phiếu. Nếu được cổ đông thông qua (tối thiểu là 2/3), ngân hàng sẽ phải thông báo cho cơ quan Chính phủ có chức năng quản lý hoạt động mua lại, sáp nhập, thông báo cho cơ quan quản lý ngân hàng giám sát những ngân hàng liên quan [136, tr.820].
Thứ hai, trình tự, thủ tục thực hiện theo quy định của pháp luật cạnh tranh.
NHTM tham gia mua lại, sáp nhập có văn bản thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh hoặc đề nghị được hưởng miễn trừ đối với trường hợp mua lại, sáp nhập bị cấm theo quy định của pháp luật cạnh tranh. Yếu tố “ảnh hưởng cạnh tranh” của các thương vụ mua lại, sáp nhập thường được pháp luật đưa lên vị trí hàng đầu. Vì thế trình tự, thủ tục thực hiện theo quy định của pháp luật cạnh tranh được xem là quy định bắt buộc khi quyết định một thương vụ mua lại, sáp nhập ngân hàng. Cơ quan quản lý cạnh tranh hoặc cơ quan tư pháp nơi ngân hàng gửi đề nghị mua lại, sáp nhập sẽ xem xét đơn đề nghị theo thẩm quyền và cho ý kiến chính thức thương vụ đó có được tiến hành hay không. Nếu được chấp thuận, các bên tham gia sẽ phải hoàn tất hồ sơ theo quy định của pháp luật và gửi cơ quan quản lý ngân hàng phê chuẩn.
Thứ ba, trình tự, thủ tục chấp thuận nguyên tắc mua lại, sáp nhập.
NHTM tham gia mua lại, sáp nhập phối hợp lập hồ sơ theo quy định để NHTM mua lại, nhận sáp nhập gửi cơ quan quản lý ngân hàng xem xét, quyết định chấp thuận nguyên tắc mua lại, sáp nhập. Trong bước chấp thuận nguyên tắc mua lại, sáp nhập, trên cơ sở thủ tục, hồ sơ đã chuẩn bị, ý kiến chính thức của các cơ quan có thẩm quyền liên quan đến việc chấp thuận nguyên tắc mua lại, sáp nhập, thẩm quyền quyết định sau cùng sẽ do một cơ quan được pháp luật quy định thực hiện, đồng thời chịu trách nhiệm trong quá trình thẩm định về trình tự, thủ tục chấp thuận nguyên tắc mua lại, sáp nhập NHTM.
Do chế độ chính trị, điều kiện kinh tế, xã hội, hệ thống pháp luật của từng quốc gia khác nhau nên việc quy định thẩm quyền quyết định mua lại, sáp nhập ngân hàng đối với các cơ quan, tổ chức cũng không giống nhau. Ở Mỹ, Đạo luật sáp nhập ngân hàng năm 1960 đòi hỏi mỗi ngân hàng khi tham gia sáp nhập phải được
chuẩn y từ các cơ quan điều hành Liên bang trước khi sáp nhập. Với các ngân hàng trong nước thì việc sáp nhập phải được Cục Quản lý tiền tệ thông qua; đối với các ngân hàng được bảo hiểm, đồng thời là thành viên của Hệ thống Dự trữ Liên bang thì phải có sự thông qua của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ Fed; nếu không là thành viên của Hệ thống Dự trữ Liên bang thì cần phải có sự thông qua của Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Liên bang [136, tr.822]. Ở Thái Lan, cơ quan có thẩm quyền quyết định mua lại, sáp nhập ngân hàng được trao cho NHTW...
Ở Việt Nam, thẩm quyền quyết định mua lại, sáp nhập NHTM được pháp luật quy định đối với cơ quan quản lý ngân hàng và trong nội bộ NHTM. Về thẩm quyền của cơ quan quản lý ngân hàng, NHNN là cơ quan chấp thuận việc mua, bán, chia, tách, hợp nhất, sáp nhập và giải thể TCTD. NHNN có quyền yêu cầu chủ sở hữu tăng vốn, xây dựng, thực hiện kế hoạch tái cơ cấu hoặc bắt buộc sáp nhập, hợp nhất, mua lại đối với TCTD được kiểm soát đặc biệt. Thống đốc NHNN là người có thẩm quyền quyết định việc mua lại, sáp nhập và các hoạt động khác liên quan đến mua lại, sáp nhập của TCTD. Cục quản lý cạnh tranh có thẩm quyền chấp thuận mua lại, sáp nhập nếu không vi phạm quy định về tập trung kinh tế, Ủy ban Chứng khoán nhà nước (UBCKNN) chấp thuận mua lại, sáp nhập nếu không vi phạm quy định đối với công ty niêm yết...
Thứ tư, trình tự, thủ tục chấp thuận chính thức mua lại, sáp nhập.
Khi được chấp thuận nguyên tắc mua lại, sáp nhập, NHTM tham gia mua lại, sáp nhập phải lấy ý kiến của cơ quan có thẩm quyền quyết định của NHTM để thông qua các nội dung thay đổi tại đề án mua lại, sáp nhập và các vấn đề có liên quan khác nếu có, đồng thời phối hợp lập hồ sơ theo quy định để NHTM mua lại, nhận sáp nhập gửi cơ quan quản lý ngân hàng xem xét chấp thuận. Cơ quan quản lý ngân hàng có trách nhiệm thẩm định hồ sơ, chấp thuận hoặc từ chối chấp thuận việc mua lại, sáp nhập. Nếu được chấp thuận, các ngân hàng tham gia mua lại, sáp nhập phải hoàn tất các thủ tục pháp lý liên quan đến việc thành lập, tổ chức và hoạt động của ngân hàng như thực hiện đăng ký kinh doanh, chuyển đổi hình thức pháp lý, đăng ký quyền sở hữu tài sản hay các thủ tục liên quan đến chứng khoán niêm yết.
Trên thế giới, hoạt động ngân hàng là một trong những lĩnh vực được kiểm soát chặt chẽ nhất. Để đảm bảo tính thận trọng trong quá trình xử lý, đối với tất cả các trường hợp mua lại, sáp nhập, pháp luật Việt Nam đều áp dụng hai bước chấp thuận là chấp thuận nguyên tắc và chấp thuận chính thức. Đối với chấp thuận nguyên tắc, việc mua lại, sáp nhập NHTM liên quan đến nhiều cơ quan quản lý ở cả
Trung ương và địa phương, do vậy trong bước này quy định việc mua lại, sáp nhập phải có ý kiến của một số cơ quan ở Trung ương và địa phương. Đối với chấp thuận chính thức, trong trường hợp phương án hoặc các vấn đề khác liên quan đến việc mua lại, sáp nhập thay đổi so với bước chấp thuận nguyên tắc mà thuộc thẩm quyền của cơ quan có thẩm quyền nội bộ quyết định thì các NHTM một lần nữa phải tổ chức đại hội đồng cổ đông để thông qua. Khi hoàn tất thủ tục này, ngân hàng tham gia mua lại, sáp nhập lập và gửi bộ hồ sơ theo quy định để trình xem xét. Sau khi có quyết định của Thống đốc NHNN, các NHTM tham gia mua lại, sáp nhập phải hoàn tất các thủ tục về đăng ký kinh doanh và đăng bố cáo.
Bản chất pháp lý của việc chấp thuận mua lại, sáp nhập NHTM chính là việc kiểm soát các trình tự, thủ tục và giám sát việc mua lại, sáp nhập NHTM một cách chặt chẽ của cơ quan quản lý có thẩm quyền. Chỉ khi nào các ngân hàng tham gia mua lại, sáp nhập hoàn tất các trình tự, thủ tục trong từng giai đoạn thì mới được thực hiện các công việc tiếp theo. Quyết định chấp thuận mua lại, sáp nhập của cơ quan quản lý ngân hàng chính là việc thừa nhận các bên đã hoàn tất các trình tự, thủ tục theo quy định. Việc pháp luật xác định thủ tục chấp thuận mua lại, sáp nhập NHTM cũng chính bởi vai trò quan trọng của NHTM đối với nền kinh tế và an toàn của cả hệ thống ngân hàng. Một trong những chức năng quan trọng của nhà nước là kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật do nhà nước ban hành, chính vì thế công tác kiểm tra, giám sát đối với các quá trình thực hiện mua lại, sáp nhập của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng không nằm ngoài chức năng đó.
- Trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập NHTM theo hình thức thực hiện bắt buộc:
Mua lại, sáp nhập được thực hiện theo hình thức tự nguyện nhưng có thể bị bắt buộc mua lại hay sáp nhập. Đây là trường hợp mang tính chất áp đặt của cơ quan quản lý ngân hàng khi xử lý một vụ việc cụ thể. Trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập NHTM trong trường hợp thực hiện bắt buộc thông thường bao gồm một số bước sau:
Thứ nhất, khi xác định ngân hàng yếu kém, không có khả năng tái cơ cấu hoặc tái cơ cấu không thành công, cơ quan quản lý ngân hàng sẽ ban hành quyết định mua lại, sáp nhập bắt buộc để gửi cho ngân hàng bị yêu cầu mua lại, sáp nhập. Nếu không có phản đối của cơ quan tư pháp hoặc cơ quan quản lý có thẩm quyền, việc mua lại, sáp nhập sẽ được thực thi kể từ ngày mua lại, sáp nhập có hiệu lực ghi trong quyết định được ban hành của cơ quan quản lý ngân hàng.
Ở Mỹ, khi một ngân hàng gặp khó khăn, Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Liên
bang Mỹ phải đưa ra quyết định liệu ngân hàng đó có bị phá sản hay không. Một trong hai phương pháp mà cơ quan này có thể lựa chọn là phương pháp mua lại để giải quyết hậu quả phá sản. Vào một ngày xác định, Cơ quan quản lý ngân hàng cấp Bang hay Liên bang có thẩm quyền sẽ ban hành quyết định đóng cửa ngân hàng. Ngân hàng mua lại sẽ tiến hành thỏa thuận với các quan chức của Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Liên bang về giá trị tài sản của ngân hàng và thoả thuận về tài sản hay những khoản nợ được cơ quan này giữ lại, cũng như những món nợ sẽ do người mua có trách nhiệm hoàn trả [136, tr.58,59].
Thứ hai, cơ quan quản lý ngân hàng hay ngân hàng được chỉ định mua lại sẽ tiếp quản ngân hàng bị mua lại. Các thủ tục pháp lý sẽ được tiến hành như chuyển giao quyền, nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp, tài sản giữa các bên thực hiện mua lại, sáp nhập. Điều chuyển các nhân sự cấp cao sang NHTM bị mua lại, sáp nhập để điều hành hoạt động ngân hàng nhằm đảm bảo NHTM bị mua lại, sáp nhập hoạt động được an toàn, liên tục, ổn định, không ảnh hưởng đến quyền lợi người gửi tiền và quyền lợi, nghĩa vụ của bên thứ ba. Pháp luật Mỹ quy định nếu ngân hàng bị phá sản được tiếp quản bởi một ngân hàng lớn hơn theo phương pháp mua lại, những người gửi tiền sẽ được tiếp tục tích lũy tiền lãi của họ mà không có sự gián đoạn nào [136, tr.58].
Thứ ba, cơ quan quản lý ngân hàng hay ngân hàng được chỉ định mua lại sẽ thực hiện cấp đủ vốn điều lệ đối với ngân hàng bị mua lại theo quy định của pháp luật, thực hiện các quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp như các nghĩa vụ nợ, khoản vay, tiền gửi dưới mọi hình thức, thực hiện quyền chủ nợ, quyền sở hữu tài sản... theo quy định. Tại Thái Lan, NHTW khuyến khích các NHTM hợp nhất thông qua hình thức cung cấp vốn đối ứng cho bên mua lại các ngân hàng nhỏ và đứng ra bảo lãnh các khoản lỗ từ danh mục nợ xấu (sau khi đã trích lập dự phòng rủi ro) trong các năm hoạt động đầu tiên. Bên cạnh đó, NHTW còn cung cấp vốn cho các NHTM dưới dạng cổ phần thông thường và cổ phần ưu đãi; các NHTM có quyền mua lại vốn đầu tư của NHTW Thái Lan với giá gốc cộng với chi phí vốn [32].
Thứ tư, cơ quan quản lý ngân hàng/ngân hàng được chỉ định mua lại cùng các bên có liên quan hoàn tất các thủ tục pháp lý liên quan đến việc thành lập, tổ chức và hoạt động của ngân hàng bị mua lại, bị sáp nhập bắt buộc như thực hiện đăng ký kinh doanh, chuyển đổi hình thức pháp lý, đăng ký quyền sở hữu tài sản, sở hữu trí tuệ hay các thủ tục liên quan đến chứng khoán niêm yết...
Nhìn chung, việc quy định rõ ràng, nhất quán về trình tự, thủ tục, trách
nhiệm, quyền hạn cụ thể của các cơ quan và các bên có liên quan khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM là cơ sở pháp lý quan trọng để việc mua lại, sáp nhập được thực hiện theo quy trình chặt chẽ và mang lại hiệu quả về mặt pháp lý, kinh tế, xã hội. Đồng thời, việc quy định này xác định được trách nhiệm của các cơ quan có liên quan và cơ quan quản lý ngân hàng trong quá trình thẩm định và quyết định cho phép hay không cho phép một thương vụ mua lại, sáp nhập NHTM được thực hiện.
Việc các bên thực hiện mua lại, sáp nhập cùng ký vào một thỏa thuận hay hợp đồng mua lại, sáp nhập không có nghĩa là giao dịch mua lại, sáp nhập đã thành công và có thể kết thúc. Các giao dịch mua lại, sáp nhập NHTM chỉ được coi là đã hoàn thành khi quyền và nghĩa vụ của các bên được ghi nhận đầy đủ, đồng thời thực hiện các trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Thực hiện trình tự, thủ tục này chính cũng là đảm bảo cho các điều kiện tiên quyết để giao dịch mua lại, sáp nhập NHTM có hiệu lực pháp luật.
Ngoài ra, trong quá trình mua lại, sáp nhập, còn có nhiều trình tự, thủ tục khác cần phải thực hiện trình tự, thủ tục liên quan đến chuyển quyền sở hữu tài sản, chuyển quyền sở hữu tác giả nếu phải thực hiện chuyển quyền sở hữu; trình tự, thủ tục liên quan đến cấp giấy phép thành lập và hoạt động, nộp thuế, phát hành chứng khoán... Những trình tự, thủ tục này được ban hành rải rác tại nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Vì thế việc xây dựng và ban hành cẩm nang hướng dẫn về trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập NHTM là rất cần thiết và hữu ích cho các bên tham gia.
2.2.4.3. Xác định hệ quả pháp lý khi mua lại, sáp nhập
Hệ quả pháp lý khi mua lại, sáp nhập NHTM được xác định qua một số nội dung chính như sau:
Mua lại NHTM có thể là mua toàn bộ hoặc một phần cổ phần hay tài sản và quyền, nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của NHTM bị mua lại. Khi thực hiện mua lại toàn bộ cổ phần hay tài sản và quyền, nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp của NHTM, hệ quả pháp lý của hoạt động mua lại NHTM là NHTM bị mua lại trở thành chi nhánh trực thuộc của NHTM mua lại hoặc sau khi mua lại có thể bị sáp nhập vào NHTM mua lại, hoặc NHTM bị mua lại có thể được chuyển đổi hình thức pháp lý để trở thành công ty trực thuộc bên mua lại. Kể từ thời điểm chuyển quyền sở hữu là ngày mua lại có hiệu lực, được xác định trong văn bản chấp thuận mua lại do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định, trách nhiệm pháp lý về tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của bên bị mua lại sẽ do bên mua lại thực hiện. Về mặt pháp lý, pháp luật quy định NHTM