phải duy trì giá trị thực của vốn điều lệ hoặc vốn được cấp tối thiểu bằng mức vốn pháp định.
- Về tiêu chuẩn an toàn vốn:
Hiệp ước Basle về tiêu chuẩn vốn quốc tế năm 1987 chính thức thông qua năm 1988 (gồm Mỹ và 11 nước công nghiệp hàng đầu). Hiệp ước Basel đã thông qua tiêu chuẩn mới về vốn, áp dụng đối với các ngân hàng, tổ chức tài chính trong phạm vi quyền hạn tương ứng. Hiệp ước Basel đã được phát triển thành một khung tiêu chuẩn toàn cầu để giải quyết yêu cầu cấp bách cho một thị trường tài chính an toàn hơn. Hiệp ước tập trung vào định nghĩa mức vốn tối thiểu, theo đó các ngân hàng phải duy trì một mức vốn tối thiểu không nhỏ hơn 8% của tổng tài sản có rủi ro. Với những thay đổi sau này, Hiệp ước Basel II và III đã sửa đổi các tiêu chuẩn về tỷ lệ an toàn vốn, đưa rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động vào để xây dựng nên các trụ cột cơ bản để đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng. Theo Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS), tính đến tháng 10/2013, 14 nước thành viên hội đồng Basel đã thông qua các quy định về vốn dựa trên chuẩn Basel III, 13 quốc gia thành viên còn lại vẫn đang tiếp tục ban hành các quy định theo chuẩn Basel III. Liên quan tới việc duy trì vốn bắt buộc đối với NHTM thì ngân hàng phải thường xuyên duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu bao gồm tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu riêng lẻ và tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu hợp nhất ở một tỷ lệ bắt buộc, thường là mức 8% trở lên (theo chuẩn mực quốc tế Basel II). Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu được tính theo tỷ lệ phần trăm (%) giữa vốn tự có và tổng tài sản có đã được điều chỉnh theo hệ số rủi ro.
Tại Inđônêsia, Chính phủ khuyến khích tái cấu trúc các ngân hàng bằng cách đưa ra các tiêu chuẩn mà một ngân hàng phải đạt được như quy mô về vốn, chỉ tiêu tài chính, thị trường, năng lực cạnh tranh. Nếu không đạt được, NHTW Inđônêsia sẽ yêu cầu các ngân hàng tiến hành sáp nhập và mua lại [3]. Đối với Việt Nam, Hiệp ước Basel I ra đời từ năm 1988 nhưng phải 17 năm sau Việt Nam mới bắt đầu thực hiện theo Basel I với các quy định đảm bảo các tỷ lệ an toàn trong hoạt động của các TCTD. Các quy định hiện hành nhìn chung đã theo tinh thần của Basel II, tuy nhiên mức độ vận dụng của các ngân hàng Việt Nam vẫn còn chưa đầy đủ do thiếu cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở dữ liệu, được tính toán trên cơ sở các chuẩn mực kế toán Việt Nam. Trong giai đoạn 2016-2020, mục tiêu đặt ra của NHNN là “tiến hành đánh giá, xếp hạng các TCTD theo chuẩn mực quốc tế; về cơ bản áp dụng đầy đủ 25 nguyên tắc của Basel, áp dụng các chuẩn mực và thông lệ quốc tế về an toàn
hoạt động ngân hàng theo Basel II trước năm 2018 và thực hiện Basel III vào năm 2020. Các chuẩn mực an toàn được áp dụng phù hợp với quy mô và phạm vi hoạt động của các định chế tài chính.” [114, tr.504].
Những phân tích trên đây cho thấy các tiêu chuẩn, điều kiện quy định về vốn, an toàn vốn trong hoạt động ngân hàng liên quan đến quy định về “chuẩn mực” vốn đối với ngân hàng sau khi thực hiện mua lại, sáp nhập, theo đó (i) Vốn là một trong những điều kiện tiên quyết để thành lập một ngân hàng. (ii) An toàn vốn tối thiểu được đặt ra ngày một gay gắt trong quá trình hoạt động ngân hàng, buộc các cơ quan quản lý ngân hàng và bản thân các ngân hàng phải tiếp cận thực hiện các chuẩn mực này. Mua lại, sáp nhập liên quan đến việc thành lập, hoạt động, tổ chức và tổ chức lại NHTM; liên quan đến vốn, tỷ lệ an toàn vốn của ngân hàng thực hiện mua lại, sáp nhập sau khi mua lại, sáp nhập. Vì vậy “chuẩn mực” về vốn, tỷ lệ an toàn vốn được xem là tiêu chuẩn, điều kiện quan trọng để một thương vụ mua lại, sáp nhập ngân hàng được phép thực hiện.
Thứ ba, tiêu chuẩn, điều kiện về tỷ lệ sở hữu vốn cổ phần khi thực hiện mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại.
Khi nghiên cứu về M&A, có tác giả sử dụng thuật ngữ Takeovers được hiểu là thâu tóm một tỷ lệ sở hữu đủ để chi phối doanh nghiệp mục tiêu và Buyouts được hiểu là việc mua lại cổ phần để bên mua nắm được quyền kiểm soát doanh nghiệp mục tiêu [1, tr.21]. Acquisitions và Takeovers cơ bản là giống nhau nhưng có một điểm khác nhau khi sử dụng các từ này để diễn đạt một thương vụ mua bán, sáp nhập doanh nghiệp cụ thể. Acquisitions thường được hiểu là có sự thương thảo trong quá trình mua bán, sáp nhập doanh nghiệp và mang tính thân thiện. Trong khi đó, Takeovers thường diễn đạt các thương vụ mua bán doanh nghiệp với tính chất thâu tóm doanh nghiệp mục tiêu của bên mua, với mục đích để loại bỏ đối thủ cạnh tranh hoặc thâu tóm để nắm quyền điều hành doanh nghiệp khi ban lãnh đạo của công ty bị thâu tóm không đồng ý [1, tr.22].
Thế giới đã diễn ra nhiều cuộc mua bán, sáp nhập, thâu tóm các định chế tài chính, ngân hàng với quy mô, mức độ khác nhau, diễn ra trong một quốc gia hoặc xuyên quốc gia. Trên thực tế, không phải tất cả các thương vụ mua bán, sáp nhập ngân hàng đều đúng pháp luật. Khi việc thâu tóm ngân hàng xảy ra có thể dẫn đến thao túng việc kinh doanh tiền tệ, lãi suất, tỉ giá, hoặc cho vay dưới chuẩn... [57]. Thâu tóm ngân hàng cũng được đặt ra trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, khi
mà các hạn chế, rào cản kỹ thuật dần được gỡ bỏ đối với các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện cam kết quốc tế. Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt nên thường có những cam kết quốc gia riêng trong quá trình đàm phán. Ví dụ khi đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam cam kết về việc góp vốn dưới hình thức mua cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam như sau: Đối với các NHTM quốc doanh được cổ phần hóa thì tỷ lệ cổ phần của các TCTD nước ngoài trong các ngân hàng cổ phần hóa này có thể bị hạn chế như mức tỷ lệ cổ phần của các ngân hàng Việt Nam trong các ngân hàng cổ phần hóa này; đối với các NHTMCP thuộc khu vực dân doanh thì tổng số cổ phần do các cá nhân, tổ chức nước ngoài nắm giữ tại mỗi NHTMCP của Việt Nam không được vượt quá 30% vốn điều lệ của ngân hàng đó, trừ khi luật pháp Việt Nam có qui định khác hoặc được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam [111].
Có thể bạn quan tâm!
- Khái Quát Chung Về Mua Lại, Sáp Nhập Và Pháp Luật Về Mua Lại, Sáp Nhập Doanh Nghiệp
- Nội Dung Pháp Luật Về Mua Lại, Sáp Nhập Doanh Nghiệp
- Đặc Điểm Pháp Luật Về Mua Lại, Sáp Nhập Ngân Hàng Thương Mại
- Xác Định Trình Tự, Thủ Tục Mua Lại, Sáp Nhập
- Xác Định Giải Quyết Tranh Chấp Khi Mua Lại, Sáp Nhập
- Quy Định Của Pháp Luật Về Mua Lại, Sáp Nhập Ngân Hàng Thương Mại
Xem toàn bộ 177 trang tài liệu này.
Để hạn chế sự thâu tóm được hiểu tương tự như đề phòng một tổ chức, một cá nhân giữ quyền chi phối ngân hàng, các quốc gia đều có quy định nghiêm ngặt về giới hạn tỉ lệ sở hữu cổ phần trong lĩnh vực ngân hàng. Đối với các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán, pháp luật Thái Lan quy định bất cứ người nào hoặc công ty nào mua chứng khoán đến một tỷ lệ phần trăm có thể ảnh hưởng đến hoạt động quản lý của một công ty thì phải báo giá bỏ thầu để mua lại chứng khoán của công ty đó. Pháp luật Thái Lan quy định các nhà đầu tư nước ngoài mua hoặc chuyển nhượng chứng khoán lên đến 5% tổng số chứng khoán của một công ty nội địa phải thông báo cho Ủy ban chứng khoán trong ngày kinh doanh kế tiếp [59, tr.68]. Pháp luật hiện hành của Việt Nam cũng khống chế nhà đầu tư trong nước sở hữu cổ phần của NHTM, khống chế nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của TCTD Việt Nam.
Ngân hàng và các dịch vụ tài chính là các lĩnh vực kinh doanh có điều kiện. Các quốc gia trên thế giới đều hạn chế việc mở cửa đối với loại hình kinh doanh này và việc mở cửa phải theo những lộ trình nhất định. Việc nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp trong nước liên quan đến phương thức cung cấp dịch vụ thông qua sự hiện diện thương mại tại quốc gia. Với các ngành và phân ngành khác đã cam kết, mức cổ phần do các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ khi mua cổ phần tại doanh nghiệp trong nước phải phù hợp với các hạn chế về tỷ lệ tham gia vốn của nước ngoài được quy định trong các ngành và phân ngành đó, bao gồm cả hạn chế dưới dạng thời gian chuyển đổi nếu có, ngoại trừ
đối với việc góp vốn dưới hình thức mua cổ phần trong các NHTMCP và với những ngành không cam kết.
Ngoài việc quy định về tỷ lệ sở hữu cổ phần đối với NHTM, điều kiện để tổ chức nước ngoài mua cổ phần dẫn đến một tỷ lệ sở hữu nào đó đối với NHTM trong nước, điều kiện đối với tổ chức nước ngoài mua cổ phần và trở thành nhà đầu tư chiến lược nước ngoài, điều kiện đối với NHTM trong nước bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài cũng được pháp luật quy định chặt chẽ. Những quy định này liên quan đến điều kiện để tổ chức nước ngoài mua cổ phần của NHTM trong nước như phải có tổng tài sản tối thiểu theo quy định, xếp hạng tín nhiệm quốc tế, tuân thủ pháp luật quốc gia, cam kết gắn bó lợi ích lâu dài với NHTM mua cổ phần... Điều kiện đối với NHTM trong nước bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài cũng được xác định như phải có phương án tăng vốn, bán cổ phiếu được cơ quan có thẩm quyền thông qua, tuân thủ pháp luật trong nước...
Những vấn đề và quy định nêu trên về tỷ lệ sở hữu cổ phần ngân hàng, điều kiện mua, bán cổ phần của nhà đầu tư trong và nước ngoài là nhằm phòng tránh những rủi ro khác nhau cho nền kinh tế. Đây cũng là một trong những đặc điểm của pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM. Tỷ lệ sở hữu cổ phần, điều kiện mua, bán cổ phần của nhà đầu tư trong và ngoài nước đối với NHTM được xác định là một nội dung trong những tiêu chuẩn, điều kiện đặt ra khi thực hiện khi mua lại, sáp nhập NHTM.
Thứ tư, tiêu chuẩn, điều kiện về giải quyết quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, người lao động khi thực hiện mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại.
Ngân hàng là nơi tích trữ tiết kiệm hàng đầu của công chúng, đặc biệt là tiết kiệm của cá nhân và hộ gia đình. Việc thất thoát các khoản vốn này trong trường hợp ngân hàng phá sản hay có vấn đề sẽ thành rủi ro lớn cho nhiều cá nhân và gia đình. Hầu hết người gửi tiền tiết kiệm không có nhiều kiến thức về tài chính và đánh giá mức độ rủi ro của ngân hàng. Vì vậy bảo vệ quyền lợi của khách hàng là rất quan trọng, nếu không ý thức được vấn đề này thì rủi ro của ngân hàng kéo theo hệ lụy cho người gửi tiền có thể làm rối loạn trật tự an toàn xã hội [136, tr.36].
Pháp luật bảo vệ người gửi tiền không chỉ riêng có bảo hiểm tiền gửi. Nghiên cứu trong cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính toàn cầu kéo dài suốt 4 năm vừa qua, hệ thống ngân hàng ở Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc bị ảnh hưởng nghiêm trọng, nhưng kinh nghiệm tốt nhất trong việc bảo vệ người gửi tiền thuộc về nước Mỹ.
Nước Mỹ đã tiến hành rất thành công các thương vụ mua lại, sáp nhập đối với những ngân hàng có vấn đề và bảo vệ hoàn toàn quyền lợi của hơn 100 triệu người gửi tiền [43]. Các yêu cầu đối với pháp luật để bảo vệ người gửi tiền là: (1) Cần có một quy trình xử lý chuẩn mực đối với những ngân hàng có vấn đề; (2) Có sự phối hợp tốt giữa những thành viên trong mạng an toàn tài chính quốc gia (gồm Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, NHTW, Bộ Tài chính và Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi);
(3) Phân công rõ ràng cơ quan đầu mối để tiếp nhận và xử lý những ngân hàng có vấn đề; (4) Nhiệm vụ của Bảo hiểm tiền gửi và cách thức phối hợp giữa các thành viên mạng an toàn tài chính quốc gia trong việc mua lại, sáp nhập những ngân hàng có vấn đề, tránh sự tranh chấp và chồng chéo về quyền hạn, trách nhiệm.
Khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM thì quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của bên bị mua lại, bị sáp nhập sẽ chuyển sang bên mua lại, bên nhận sáp nhập. Về nguyên tắc khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM, NHTM mua lại, nhận sáp nhập sẽ có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ nợ đối với khoản vay, tiền gửi dưới mọi hình thức của NHTM bị mua lại, bị sáp nhập. Như vậy, ngân hàng mua lại, nhận sáp nhập sẽ phải có trách nhiệm thanh toán, hoàn trả đầy đủ (i) Tiền gốc;
(ii) Tiền lãi; (iii) Thanh toán đúng hạn và (iv) Các thỏa thuận khác giữa người gửi tiền với ngân hàng bị mua lại, bị sáp nhập. Việc ngân hàng thực hiện các nghĩa vụ đối với người gửi tiền để bảo đảm quyền của người gửi tiền là một trong những tiêu chuẩn, điều kiện bắt buộc khi thực hiện mua lại, sáp nhập ngân hàng.
Quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động khi trong trường hợp thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM có thể hiểu là: (1) Quyền có việc làm với vị trí việc làm, điều kiện làm việc như trước khi thực hiện mua lại, sáp nhập; (2) Quyền được nhận thu nhập tương đương như trước khi thực hiện mua lại, sáp nhập; (3) Quyền được hưởng bảo hiểm xã hội, y tế, phúc lợi xã hội và các quyền lợi khác như tại ngân hàng trước khi thực hiện mua lại, sáp nhập. Các quyền này cần được đảm bảo tiếp tục thực hiện theo thỏa thuận đã ký kết giữa người lao động với người sử dụng lao động là các ngân hàng trước khi bị mua lại, bị sáp nhập. Các ngân hàng thực hiện mua lại, nhận sáp có nghĩa vụ thực hiện các thỏa thuận đã ký kết giữa ngân hàng bị mua lại, bị sáp nhập đối với người lao động, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Kinh nghiệm của Hàn Quốc cho thấy, khi Chính phủ thực hiện mua lại, sáp nhập bắt buộc ngân hàng yếu kém trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế những năm
1997-1998, có những thương vụ sáp nhập ngân hàng thành công được là do tổ chức công đoàn đứng ra xử lý những vướng mắc của người lao động thuộc các ngân hàng tham gia sáp nhập [90]. Tại Trung Quốc, khi thực hiện mua lại, sáp nhập vấn đề bảo vệ người lao động trong các công ty tư nhân, nhà đầu tư nước ngoài phải đệ trình bản kế hoạch nhân sự của công ty nội địa cùng với hồ sơ xin đầu tư [59, tr.63]. Pháp luật Thái Lan quy định kế hoạch M&A phải đảm bảo được quyền lợi của người lao động và có sự đồng ý với bản kế hoạch nhân sự do bên mua đưa ra. Đối với những người xin thôi việc, công ty phải đền bù cho họ theo quy định của pháp luật về lao động tùy theo thời gian làm việc cho công ty [59, tr.69].
Qua nghiên cứu về lý luận, quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện của một số quốc gia trong vấn đề này thì quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, người lao động được ghi nhận như là một vấn đề cần ưu tiên xử lý trong một thương vụ mua lại, sáp nhập NHTM. Đây cũng là một trong những tiêu chí, điều kiện khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM, được đề cập trong quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng mua lại, sáp nhập và phải được cơ quan quản lý ngân hàng thông qua.
Thứ năm, tiêu chuẩn, điều kiện về phương án mua lại, sáp nhập và sự chấp thuận phương án mua lại, sáp nhập của cơ quan quản lý có thẩm quyền khi thực hiện mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại.
Như đã trình bày, khi một ngân hàng muốn mở rộng hoạt động như thực hiện mua lại, sáp nhập với một ngân hàng khác, thiết lập văn phòng, chi nhánh theo chiến lược phát triển của ngân hàng thì cần được sự đồng ý của cơ quan quản lý ngân hàng. Chủ sở hữu ngân hàng không thể tự mình được quyền đóng góp hay rút lui khỏi ngân hàng nếu phương án cụ thể của ngân hàng không được sự chấp thuận rõ ràng bằng văn bản từ cơ quan quản lý ngân hàng, nơi đã cấp quyết định thành lập cho ngân hàng [136, tr.36]. Phương án mua lại, sáp nhập NHTM được hiểu là văn bản cung cấp những thông tin cơ bản, quan trọng để các bên thực hiện mua lại, sáp nhập gửi tới cơ quan quản lý ngân hàng, trong đó có trình bày dự kiến những công việc sẽ tiến hành khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM, những nội dung dự kiến về cách thức, trình tự tiến hành công việc trong điều kiện, hoàn cảnh được xác định.
Thông thường, pháp luật sẽ quy định những thông tin cần thiết phải có trong phương án mua lại, sáp nhập gửi cơ quan quản lý ngân hàng để xem xét, quyết định. Ngoài những thông tin cơ quan quản lý ngân hàng có được như tình hình tài chính và hoạt động của các bên khi tham gia mua lại, sáp nhập, vốn điều lệ của NHTM
tham gia mua lại, sáp nhập, còn nhiều thông tin mà phương án mua lại, sáp nhập phải nêu rõ như xử lý quyền lợi, nghĩa vụ của NHTM tham gia mua lại, sáp nhập, của các tổ chức và cá nhân có liên quan (nếu có) như thế nào? Lộ trình sáp nhập, nhân sự, mạng lưới, nội dung hoạt động và các vấn đề khác liên quan đến tổ chức, hoạt động của NHTM sau khi mua lại, sáp nhập, phương án kinh doanh được dự kiến thực hiện ra sao? Những thông tin trong phương án mua lại, sáp nhập này một mặt thể hiện sự tuân thủ pháp luật, một mặt thể hiện ý chí, nguyện vọng của các bên khi thực hiện mua lại, sáp nhập.
Trên cơ sở phương án mua lại, sáp nhập, cơ quan quản lý ngân hàng sẽ xem xét, đánh giá thương vụ mua lại, sáp nhập ngân hàng có đáp ứng các tiêu chuẩn, điều kiện được pháp luật quy định hay không và sẽ có ý kiến trả lời chính thức bằng văn bản việc chấp thuận hay không đối với thương vụ này. Các bên tham gia mua lại, sáp nhập ngân hàng chỉ được phép thực hiện khi có ý kiến đồng ý chính thức bằng văn bản từ cơ quan quản lý ngân hàng. Những nội dung trong phương án mua lại, sáp nhập có liên quan đến thẩm quyền quản lý của cơ quan nào thì khi thực hiện mua lại, sáp nhập cần phải có sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan quản lý có thẩm quyền đó. Những văn bản chấp thuận này là quyết định của đại hội đồng cổ đông của các ngân hàng tham gia mua lại, sáp nhập thông qua phương án mua lại, sáp nhập; văn bản của cơ quan quản lý cạnh tranh thông qua về thủ tục kiểm soát tập trung kinh tế; văn bản của cơ quan quản lý chứng khoán thông qua về phương án hoán đổi cổ phiếu, sử dụng mã chứng khoán; văn bản của cơ quan quản lý thuế thông qua về quyết toán thuế; văn bản của cơ quan quản lý ngân hàng thông qua việc chấp thuận mua lại, sáp nhập; văn bản của cơ quan quản lý đăng ký kinh doanh về việc cấp đăng ký kinh doanh...
Căn cứ vào các tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhập NHTM nêu trên, tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhập NHTM trong trường hợp thực hiện tự nguyện và bắt buộc được xác định như sau:
- Tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhập NHTM trong trường hợp thực hiện tự nguyện:
Các NHTM có quyền thực hiện mua lại, sáp nhập để phù hợp với mục tiêu phát triển của doanh nghiệp, đáp ứng quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật. Theo nguyên tắc tự nguyện, các bên thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM sẽ cùng trao đổi, thỏa thuận các nội dung phục vụ cho mục đích mua lại, sáp nhập
của các bên trước khi được cơ quan quản lý ngân hàng phê duyệt phương án mua lại, sáp nhập. Tuy nhiên, ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt, hoạt động của NHTM có tác động sâu sắc đến tình hình kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia, vì vậy việc tiến hành các hoạt động mua lại, sáp nhập ngân hàng cần được đặt trong một khuôn khổ pháp lý vững chắc.
Tại Hàn Quốc, để xử lý cuộc khủng hoảng tài chính, ngân hàng bắt đầu từ những năm 1997, NHTW đã tiến hành rà soát và phân loại NHTM. Sau khi đánh giá được mức vốn thực có của các NHTM, NHTW đã thực hiện các bước đi mạnh mẽ, đồng thời khuyến khích các ngân hàng thực hiện mua lại, sáp nhập tự nguyện để giúp các ngân hàng có vấn đề tự giải quyết, nhưng cũng khuyến khích để các NHTM đang hoạt động bình thường thực hiện mua lại, sáp nhập, hợp nhất với nhau trở thành các ngân hàng lớn, có khả năng cạnh tranh hiệu quả với các ngân hàng nước ngoài. Tháng 11/2001, hai ngân hàng lớn của Hàn Quốc là Kookmin Bank và Housing & Commercial Bank đã tự nguyện sáp nhập với nhau trở thành ngân hàng lớn nhất Hàn Quốc. Đến cuối năm 2005, quá trình tái cơ cấu đã đưa tổng số ngân hàng ở Hàn Quốc từ 33 ngân hàng vào năm 1997 xuống còn 19 ngân hàng [120, tr.17].
Tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhập NHTM theo hình thức tự nguyện được xác định là:
(i) Không vi phạm pháp luật cạnh tranh về hành vi tập trung kinh tế sau khi thực hiện mua lại, sáp nhập;
(ii) Đáp ứng yêu cầu về vốn, tỷ lệ an toàn vốn sau khi thực hiện mua lại, sáp nhập;
(iii) Đáp ứng yêu cầu về tỷ lệ sở hữu cổ phần sau khi thực hiện mua lại, sáp nhập;
(iv) Đáp ứng yêu cầu về giải quyết quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, người lao động sau khi thực hiện mua lại, sáp nhập;
(v) Có phương án mua lại, sáp nhập theo quy định và sự chấp thuận phương án mua lại, sáp nhập của cơ quan quản lý có thẩm quyền.
Với những tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhập NHTM như trên thì việc một ngân hàng đang hoạt động bình thường, hay một ngân hàng được xác định chưa đáp ứng một số chuẩn mực an toàn nhưng không nghiêm trọng đều có thể thực hiện tự nguyện mua lại, sáp nhập theo định hướng phát triển của ngân hàng hoặc là giải pháp thực hiện tái cơ cấu của ngân hàng.