Pháp luật về hoạt động bao thanh toán của tổ chức tín dụng ở Việt Nam hiện nay - 2

quyền lợi cũng như nguồn vốn luân chuyển để tiếp tục sản xuất, tránh tình trạng ứ đọng vốn làm giảm khả năng kinh doanh của bên bán hàng. Với hình thức cấp tín dụng mới mẻ này, cho phép bên bán hàng có được những quyền lợi nhất định.

Tuy nhiên, hình thức bao thanh toán manh nha xuất hiện ở nước ta từ đầu thập niên 90 nhưng phải đến năm 2004 mới chính thức hoạt động ở Việt Nam sau khi Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng có hiệu lực, đến nay hình thức này còn khá mới và lạ lẫm đối với nhiều doanh nghiệp cũng như người dân Việt Nam. Thêm vào đó, các quy định của pháp luật về phương thức này còn gặp nhiều hạn chế. Vì vậy, sau khi tìm hiểu tôi xin mạnh dạn nghiên cứu về vấn đề bao thanh toán với đề tài: “Pháp luật về hoạt động bao thanh toán của tổ chức tín dụng ở Việt Nam hiện nay”.

Với trình độ và nhận thức còn hạn chế, đề tài sẽ còn rất nhiều khuyết điểm, do đó, kính mong Quí thầy cô và các bạn cùng tham gia góp ý để đề tài được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn./.

2. Mục đích nghiên cứu


Một là, trung nghiên cứu làm rõ lý luận về hoạt đông bao thanh toán như nguồn gốc, bản chất, quy tắc hoạt động của bao thanh toán. Đây là nền tảng quan trọng để thực hiện và phát triển hoạt động dịch vụ bao thanh toán ở nước ta nói riêng và trên thế giới nói chung. Đồng thời, tập trung nghiên cứu tình hình phát triển hoạt động bao thanh toán của tổ chức tín dụng trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, từ đó đưa ra được những bài học kinh nghiệm áp dụng vào nước ta.

Hai là, căn cứ lý luận về bao thanh toán và pháp luật về bao thanh toán

đánh giá pháp luật Việt Nam hiện hành về hình thức bao thanh toán, thực trạng phát triển hoạt động bao thanh toán ở nước ta và tìm ra nguyên nhân, hạn chế trong hoạt động này ở Việt Nam. Đánh giá khách quan về chính sách pháp luật điều chỉnh bao thanh toán ơ nước ta, làm rõ những khó khăn, hạn chế và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật bao thanh toán.

Ba là, đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả pháp luật về bao thanh toán ở Việt Nam.

3. Phạm vi nghiên cứu

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ luật học về lý luận và dựa trên các quy định pháp luật hiện hành gắn với tình hình phát triển dịch vụ bao thanh toán cũng như pháp luật về bao thanh toán ở một số nước trên thế giới, rút ra bài học kinh nghiệm áp dụng thực tiễn nước nhà. Đồng thời, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu bao thanh toán tại Ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay.

4. Phương pháp nghiên cứu

Pháp luật về hoạt động bao thanh toán của tổ chức tín dụng ở Việt Nam hiện nay - 2

Đề tài được xây dựng dựa trên tổng hoà của các phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp luận duy vật biện chứng kết hợp với phương pháp phân - tổng hợp, phương pháp so sánh, thống kê dựa trên tư tưởng Mac - LêNin.

5. Tình hình nghiên cứu và tính mới của kết quả luận văn

Bao thanh toán là một hình thức cấp tín dụng được đưa vào hoạt động ở Việt Nam chính thức từ năm 2004 đến nay. Với 10 năm ra đời, hoạt động và phát triển, hoạt động này đã bước đầu thu được những thành quả đáng ghi nhận và nhận được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tác giả. Ví dụ như Luận văn thạc sĩ Kinh tế của Nguyễn Thị Thu Hiền với “Phát triển nghiệp vụ bao thanh toán của ngân hàng công thương tại Việt Nam”, hay đề tài “Tình


3

hình thực hiện bao thanh toán ở Việt Nam và một số giải pháp để đưa sản phẩm bao thanh toán ứng dụng vào Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thái Bảo Luân,... Tuy nhiên, các tác giả thường tập trung nghiên cứu nghiệp vụ kinh tế về bao thanh toán của các ngân hàng thương mại ở nước ta mà chưa chú trọng đến pháp luật điều chỉnh hoạt động này ở Việt Nam. Trong khi hệ thống pháp luật Việt Nam điều chỉnh về nghiệp vụ này còn nhiều hạn chế, chưa thực sự linh động và nhất quán. Chính vì thế, ở đề tài này tác giả muốn tìm hiểu một cách thống nhất tạo cơ sở tiền đề nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nghiệp vụ bao thanh toán.

Kết quả nghiên cứu chủ yếu của luận văn là:

Thứ nhất, hệ thống hóa và làm rõ lý luận về bao thanh toán và pháp luật về bao thanh toán trên cơ sở nghiên cứu các quan điểm khoa học và kinh nghiệm xây dựng và thi hành pháp luật về bao thanh toán ở một số nước trên thế giới.

Thứ hai, đánh giá thực trạng pháp luật về bao thanh toán ở Việt Nam, làm rõ những bất cập, hạn chế và nguyên nhân cần khắc phục.

Thứ ba, xác định những quan điểm chung và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về bao thanh toán ở Việt Nam.

6. Bố cục của đề tài

Ngoài phần Mở đầu, Nội dung, Kết luận đề tài được chia làm 3 chương, cụ thể như sau:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hoạt động bao thanh toán của tổ chức tín dụng.

Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn hoạt động bao thanh toán của tổ chức tín dụng ở Viêt Nam.

Chương 3: Giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu

quả về nghiệp vụ bao thanh toán của tổ chức tín dụng.


CHƯƠNG 1- MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG BAO THANH TOÁN CỦA TỐ CHỨC TÍN DỤNG


1.1. Những vấn đề chung về bao thanh toán


1.1.1. Khái niệm và đặc điểm

1.1.1.1. Khái niệm

Bao thanh toán (BTT) xuất phát từ đại lý hưởng hoa hồng, những người thực hiện việc mua bán và luân chuyển hàng hóa khoảng 2000 năm trước dưới thời đế chế La Mã. Với sự phát triển toàn cầu của ngành công nghiệp Anh vào thế kỷ 14 và thế kỷ 15 là sự lớn mạnh trong tầm quan trọng của đại lý BTT. Khi họ dần dần tin cậy vào khả năng trả nợ của người mua trong nước mà họ giao dịch cùng, họ bắt đầu cấp tín dụng cho người ủy nhiệm mình để lấy hoa hồng cao hơn. Thực tế là, với khoản hoa hồng nhiều hơn, đại lý BTT bắt đầu bảo đảm khả năng trả nợ của người mua bằng cách hứa trả cho người ủy nhiệm trong tương lai, nếu người mua không thể trả nợ đúng hạn do khả năng tài chính không cho phép. Không lâu trước đó, là kết quả tự nhiên của việc bảo lãnh tín dụng, đại lý thanh toán có đủ vốn bắt đầu trả trước một phần (tạm ứng) cho người ủy nhiệm của mình dựa trên khoản thanh toán của người mua trong tương lai hoặc là của đại lý BTT, nếu người mua không trả tiền và nếu nó bảo lãnh khoản tín dụng đó của người mua. Do có những khoản tạm ứng này mà đại lý BTT tính thêm phí hoa hồng hay lãi suất. Thông thường, để tránh khỏi tình trạng không thanh toán hay thanh toán không đủ do những vấn đề không thuộc phạm trù tín dụng như là người mua khiếu nại nguời bán về số lượng, chất lượng hàng hóa hay thời gian giao hàng không đúng hạn, đại lý BTT không tạm ứng toàn bộ số tiền doanh thu bán hàng. Thay vào đó, họ sẽ giữ lại một phần để dự trữ phải trả cho người bán cho tới


5

khi tất cả những sự việc không thanh toán không còn tồn tại nữa. Người mua thường được thông báo là đại lý BTT đã mua quyền nhận thanh toán của họ. Vào thời điểm Columbus phát hiện ra Châu Mỹ năm 1492, đại lý BTT đã phát triển từ vai trò duy nhất với chức năng marketing thành đóng hai vai trò vừa có chức năng marketing vừa có chức năng tài chính.

Đến cuối thế kỷ 19, một sự thay đổi quan trọng trong thế giới thương mại đã xảy ra. Mỹ phát triển thành một quốc gia chủ quyền và trở nên ít bị phụ thuộc vào hàng hóa nước ngoài. Sự phát triển của ngành công nghiệp trong nước là do dân số và lực luợng lao động trong nước tăng rất nhanh, tài nguyên thiên nhiên dư thừa, và sự áp đặt biểu thuế gắt gao đối với hàng hóa nước ngoài. Đồng thời, những nhà sản xuất Mỹ phát triển đội ngũ kinh doanh (marketing) của mình và vì vậy, nhu cầu chức năng marketing mà trước đây các đại lý BTT thường thực hiện giảm đi. Tuy nhiên, môt lần nữa, các đại lý BTT lại phát triển và điều chỉnh theo nhu cầu của nền kinh tế mới trong nước, tập trung vào tín dụng, thu nợ, kế toán và các chức năng tài chính (thường là thông báo cho người mua việc bán các khoản phải thu). Việc giao cho các đại lý BTT thực hiện các chức năng này cho phép các nhà sản xuất ngành dệt của Mỹ tập trung vào sản xuất và tiếp thị trong thời kỳ phát triển rất nhanh này. Khi các nhà sản xuất Mỹ mở rộng vào đầu thế kỷ 20 sang các sản phẩm may mặc và phụ kiện, đồ nội thất và thảm thì các đại lý BTT của Mỹ cũng mở rộng chuyên môn và dịch vụ sang ngành công nghiệp này.

Đến giữa thế kỷ 20, BTT của Mỹ phát triển sang những ngành công nghiệp mới đang phát triển như điện, hoá chất, và sợi tổng hợp. Ngày nay, để làm dịu bớt nhu cầu kiểm soát hàng hóa về mặt vật lý, BTT đã mở rộng sang nhiều ngành nghề khác như giao nhận, cung cấp nhân sự tạm thời, quảng cáo, thiết kề đồ họa,... Tuy có những tình cảnh đặc biệt này, nhưng chúng ta cũng

sẽ thấy một số lượng giới hạn các đại lý BTT cung cấp những dịch vụ của mình trong những ngành công nghiệp có ảnh hưởng liên quan. [3]

Từ khi manh nha xuất hiện đến nay, hoạt động BTT đã trải qua nhiều thế kỷ tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, đến năm 1963, cơ quan kiểm soát tiền tệ công bố bao thanh toán là một hoạt động ngân hàng hợp pháp và các ngân hàng chính thức đi vào lĩnh vực này và bắt đầu từ năm 1974 thì nghiệp vụ này mới được công nhận bởi hầu hết ở các nước trên thế giới. Tại Việt Nam từ khi có Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN về Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng thì hoạt động bao thanh toán mới chính thức được triển khai tại một số NHTM Việt Nam.Có rất nhiều định nghĩa về bao thanh toán, sau đây là một số định nghĩa tiêu biểu:

Theo Hiệp hội bao thanh toán thế giới (FCI-Factors Chain International) bao thanh toán được định nghĩa là một dịch vụ tài chính trọn gói bao gồm sự kết hợp giữa tài trợ vốn hoạt động, bảo hiểm rủi ro tín dụng, theo dõi các khoản phải thu và dịch vụ thu hộ. Đó là sự thỏa thuận giữa đơn vị bao thanh toán và bên bán, trong đó bên bán hàng sẽ chuyển nhượng các khoản phải thu cho đơn vị bao thanh toán để nhận tiền ứng trước cho các khoản phải thu đó đồng thời đơn vị bao thanh toán sẽ quản lý và thu hộ các khoản phải thu đó. Trong trường hợp bao thanh toán miễn truy đòi, nếu bên mua phá sản hay mất khả năng chi trả thì đơn vị bao thanh toán sẽ thay bên mua trả tiền cho bên bán. Khi bên mua và bên bán ở hai nước khác nhau thì dịch vụ này được gọi là bao thanh toán quốc tế. Điều 1 Quy tắc chung về Bao thanh toán quốc tế của Hiệp hội bao thanh toán quốc tế - General Rules For International Factoring - FCI nêu khái niệm “Hợp đồng bao thanh toán là hợp đồng theo đó người bán có thể hoặc sẽ chuyển nhượng các khoản phải thu cho một đơn vị bao thanh toán có thể với mục đích nhận tài trợ thương mại hoặc


7

không để nhận được ít nhất một trong các chức năng sau: theo dõi sổ sách các khoản phải thu, thu hộ các khoản phải thu, bảo hiểm rủi ro nợ xấu”.

Theo Công ước UNIDROIT về Bao thanh toán quốc tế được thông qua ngày 28/05/1988 tại Ottawa - Canada tại Khoản 2 Điều 1 định nghĩa:

Hợp đồng bao thanh toán là hợp đồng giữa đơn vị bán và đơn vị bao thanh toán, theo đó người bán có thể hoặc sẽ chuyển nhượng cho các đơn vị bao thanh toán các khoản phải thu phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa/dịch vụ giữa người bán và người mua hàng. Đơn vị bao thanh toán phải thực hiện ít nhất hai trong bốn chức năng sau:

- Tài trợ cho bên bán bao gồm các khoản vay và thanh toán trước.


- Quản lý các tài khoản liên quan tới các khoản phải thu.


- Thu hộ các khoản phải thu.


- Bảo hiểm rủi ro không thanh toán của con nợ. [17]


Như vậy, so với định nghĩa của Quy tắc chung về Bao thanh toán quốc tế của Hiệp hội bao thanh toán quốc tế thì Công ước UNIDROIT bổ sung thêm một chức năng nữa của bao thanh toán là tài trợ cho người bán, bao gồm việc cho vay lẫn việc ứng tiền thanh toán trước.

Theo Từ điển kinh tế (Dictionary of Economic - Christopher Pass & Bryan Lones) th ì bao thanh toán là một sự dàn xếp tài chính, qua đó một công ty tài chính chuyên nghiệp mua lại các khoản nợ của một công ty với số tiền ít hơn giá trị của khoản nợ đó. Lợi nhuận phát sinh từ sự chênh lệch giữa tiền thu được của số nợ đã mua và giá mua thực tế của món nợ đó. Lợi ích của công ty bán nợ là nhận được tiền ngay thay vì phải chờ đến lúc con nợ trả nợ hơn nữa lại tránh được những phiền toái và các chi phí trong việc theo đuổi các con nợ chậm trả. [15]

Khái niệm này có nội hàm hạn hẹp hơn các khái niệm trên do chưa chỉ hết được các chức năng của bao thanh toán do đó chưa thấy được hết các tiện ích mang lại cho người sử dụng bao thanh toán.

Còn theo Từ điển thuật ngữ Ngân hàng - Hans Klaus cho rằng bao thanh toán là một loại hình tài trợ dưới dạng tín dụng chuyển nhượng nợ. Một công ty chuyển toàn bộ hay một phần khoản nợ cho một công ty tài chính chuyên nghiệp (công ty mua nợ, thông thường là một công ty trực thuộc ngân hàng). Công ty này đảm nhận việc thu các khoản nợ và theo dõi các khoản phải thu để hưởng thủ tục phí và có lúc ứng trước các khoản nợ. Thông thường công ty mua nợ phải chịu rủi ro mất khả năng thanh toán của món nợ.

Tại Việt Nam hiện nay văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động bao thanh toán của tổ chức tín dụng, theo Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 06 tháng 09 năm 2004 về Quy chế hoạt động bao thanh toán của các TCTD và Quyết định số 30/2008/QĐ-NHNN sửa đổi bổ sung một số điều của Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng, định nghĩa: “Bao thanh toán là một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ đã được bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ”[7]. Cũng theo các Quyết định này các TCTD được thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán là các tổ chức tín dụng thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng bao gồm:

- Ngân hàng thương mại nhà nước;


- Ngân hàng thương mại cổ phần;


- Ngân hàng liên doanh;


- Ngân hàng 100% vốn nước ngoài;


9

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 18/12/2023