Các Vấn Đề Pháp Lý Về Hoạt Động Của Doanh Nghiệp Xã Hội

trợ đào tạo về công nghệ, cung cấp thông tin [87]. Ngoài ra, các DNXH cũng có thể lựa chọn đăng ký thành lập như một công ty thương mại thông thường. Theo nghiên cứu của Foundation for Youth Social Entrepreneurship thì phần lớn các DNXH của Trung Quốc lựa chọn hoạt động như một công ty thương mại thông thường vì họ được quyền tự do nhiều hơn trong việc vận hành và quản lý doanh nghiệp. [124]

Về chấm dứt hoạt động, cũng giống như các nước, pháp luật Trung Quốc không có những quy định đặc biệt dành riêng cho việc chấm dứt hoạt động của các DNXH.

Có thể thấy các quy định pháp luật có liên quan được nêu ở trên có những điểm giống và khác với pháp luật Việt Nam. Đó là:

Hầu hết các quốc gia cho phép DNXH được thành lập theo các hình thức pháp lý đa dạng. Thậm chí các quốc gia khá linh hoạt trong vấn đề này, bằng cách không đưa ra một mô hình gò bó cho DNXH mà giành quyền lựa chọn cho các doanh nghiệp về mô hình pháp lý của doanh nghiệp trong các mô hình sẵn có tùy thuộc vào năng lực và lĩnh vực cụ thể mà doanh nghiệp hoạt động. Trong khi một số quốc gia vẫn sử dụng những hình thức pháp lý truyền thống cho DNXH (như Thái Lan và Trung Quốc), một số nước lại có những “cải tiến” nhất định để đưa ra các hình thức pháp lý chuyên biệt dành cho DNXH (như Hoa Kỳ, Anh Quốc và Hàn Quốc). Mỗi cách tiếp cận đều có những ưu và nhược điểm riêng. Sự đa dạng các loại hình doanh nghiệp tại Hoa Kỳ (trong đó có sự phát triển từ các loại hình truyền thống như CTCP và CTTNHH) cho phép doanh nghiệp lựa chọn được mô hình phù hợp nhất với hoạt động của mình. Việc nghiên cứu và bổ sung những mô hình pháp lý mới trong luật cũng dựa trên nhu cầu hoạt động của doanh nghiệp và thực tiễn án lệ, do đó mang tính khả thi cao. Tuy nhiên, nhược điểm dễ nhận thấy là khó khăn trong thống nhất quản lý vì mỗi bang lại thừa nhận những loại hình tổ chức doanh nghiệp khác nhau. Ví dụ, một doanh nghiệp thành lập theo mô hình BLLC tại Maryland khi hoạt động tại bang khác (không thừa nhận loại hình doanh nghiệp này) thì có thể gặp khó khăn khi tiếp cận với các chính sách ưu đãi dành cho những doanh nghiệp tương tự (cũng hoạt động vì lợi ích cộng đồng).

Trong khi đó, thành công nổi bật của các nhà làm luật của Anh là xây dựng một xây dựng mô hình chuyên biệt và thống nhất cho hoạt động của DNXH – mô hình CIC. Sự ra đời của CIC đánh dấu việc thừa nhận tầm quan trọng của các DNXH tại Anh. Mô hình này cho phép các DNXH có thể tham gia hoạt động kinh doanh tự do như các công ty thông thường, đồng thời có quy định nhằm đảm bảo tài sản công ty sẽ được sử dụng đúng mục đích xã hội ban đầu. Số lượng doanh nghiệp đăng ký dưới hình thức CIC tăng lên nhanh chóng tại Anh. Tính tới tháng 11/2014, số lượng CIC đăng ký đã đạt mốc

10.000 doanh nghiệp và riêng trong tháng 4/2016 thì đã có tới 268 CIC được thành lập [130]. Mô hình riêng „thiết kế cho DNXH‟ xem xét tới các nét đặc thù của loại hình doanh nghiệp này (ví dụ sự cân bằng giữa lợi ích cổ đông và lợi ích công cộng, quá trình quản lý phải xem xét toàn diện tới ảnh hưởng tới các bên liên quan, không chỉ là cổ đông, hạn chế chuyển nhượng tài sản hoặc phân phối lợi nhuận). Tuy nhiên, lưu ý rằng việc thành lập dưới hình thức CIC không phải là quy định bắt buộc để một doanh nghiệp được thừa nhận là DNXH. Các DNXH có thể lựa chọn đăng ký hoặc không đăng ký là một CIC. Một doanh nghiệp không đăng ký là CIC, nhưng đáp ứng các tiêu chí về DNXH (do cơ quan Chính phủ đưa ra) thì vẫn có thể được hưởng các ưu đãi dành cho loại doanh nghiệp này.

Trái lại, các hình thức pháp lý tại Trung Quốc dành cho DNXH lại bộc lộ nhiều nhược điểm. Mô hình doanh nghiệp phúc lợi xã hội về tên gọi thì có xu hướng gần gũi với DNXH nhưng quy định pháp luật giới hạn loại hình này trong các doanh nghiệp có sử dụng người khuyết tật. Ngoài ra, mô hình này được đưa ra từ năm 1949 với mục tiêu của các nhà làm luật khi đó là giải quyết vấn đề lao động cho người khuyết tật. Cách thức tổ chức doanh nghiệp chưa theo kịp các tiêu chuẩn hiện đại và còn phụ thuộc quá nhiều vào trợ cấp Chính phủ. Chính vì vậy, đây không phải là một lựa chọn hấp dẫn cho các nhà kinh doanh muốn thành lập DNXH tại Trung Quốc. Các DNXH tại nước này hiện nay vẫn thành lập và hoạt động dựa vào các mô hình truyền thống như công ty thương mại hoặc các tổ chức/các quỹ hoạt động phi lợi nhuận, hợp tác xã,… trong khi các mô hình này chưa thể thể hiện được đầy đủ các nét đặc trưng của DNXH. Đây là một trở lại lớn trong việc phát triển DNXH của Trung Quốc.

Một điểm chung dễ nhận thấy, đó là các quốc gia đều đặt điều kiện về việc phân phối tài sản khi thành lập DNXH. Quy định này thể hiện rất rõ ở Anh, Hoa Kỳ và Hàn Quốc. Với quy định này nhằm ngăn chặn sự phân chia lợi nhuận của công ty cho giám đốc hay các thành viên của công ty; nhằm tập trung tối đa hóa lợi nhuận cho việc chăm lo cho lợi ích cộng đồng. Sự ghi nhận này có thể bằng quy định của pháp luật, cũng có thể nằm ở quy định bắt buộc ghi nhận việc tập trung tối đa hóa lợi nhuận cho lợi ích công cộng trong biên bản hợp đính kèm trong hồ sơ thành lập công ty hoặc trong điều lệ công ty.

Trong các điều kiện thành lập của các DNXH, hầu hết các quốc gia đều nhấn mạnh vào lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp. Các lĩnh vực thường tập trung vào các vấn đề phúc lợi, giáo dục, y tế… Điều này là do những lĩnh vực này tương đối đặc thù, bởi bản thân sự hoạt động của các doanh nghiệp trong các lĩnh vực này cũng đã là một sự đóng góp cho cộng đồng, đem lại lợi ích cho cộng đồng, nên những lĩnh vực này được khuyến

khích sự phát triển hoạt động của các DNXH. Hơn nữa, các quốc gia cũng nhấn mạnh về vấn đề bảo vệ người lao động, ở nghĩa bảo vệ quyền được lao động, quyền được làm việc của những nhóm người yếu thế như phụ nữ, người già, người khuyết tật hay những người kém may mắn khác…

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 187 trang tài liệu này.

3.1.3. Các vấn đề pháp lý về hoạt động của doanh nghiệp xã hội

a) Về tổ chức hoạt động

Pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay - 13

Ở Việt Nam, hoạt động quản lý, điều hành của DNXH dựa trên cơ sở những quy định về quản lý, điều hành của các loại hình doanh nghiệp theo quy định của LDN 2020. Bên cạnh đó, chủ doanh nghiệp tư nhân đối với doanh nghiệp tư nhân, thành viên đối với công ty hợp danh và công ty trách nhiệm hữu hạn, cổ đông đối với công ty cổ phần và thành viên Hội đồng quản trị công ty cổ phần đã ký tên trong Cam kết thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường phải thực hiện các hoạt động quản lý, điều hành cũng như giám sát, kiểm soát các hoạt động của doanh nghiệp trên tinh thần thực hiện đầy đủ những mục tiêu đã cam kết. Những cam kết này ngoài việc phải công khai trên trang thông tin của doanh nghiệp, điều lệ, nội quy, quy chế hoạt động nội bộ của doanh nghiệp mà còn được cơ quan đăng ký kinh doanh công bố công khai cho cộng đồng doanh nghiệp và xã hội biết. Mọi hành vi quản lý, điều hành của bộ máy quản lý của doanh nghiệp sẽ được lập thành báo cáo hàng năm và được theo dõi, giám sát trong việc tuân thủ cam kết bởi Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Sở Kế hoạch và đầu tư cũng như cơ quan quản lý viện trợ, tài trợ thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có đặt trụ sở chính của DNXH.

Về huy động vốn, pháp luật Việt Nam cũng có quy định tương tự các nước khi cho phép DNXH nhận nguồn tài trợ. Theo quy định tại Điều 4 Nghị định số 47/2021/NĐ-CP, DNXH có thể tiếp nhận viện trợ phi chính phủ nước ngoài để thực hiện mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường theo quy định của pháp luật về tiếp nhận viện trợ phi chính phủ nước ngoài. Ngoài các khoản viện trợ quy định nói trên, DNXH được tiếp nhận tài trợ bằng tài sản, tài chính hoặc hỗ trợ kỹ thuật từ các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong nước và tổ chức nước ngoài đã đăng ký hoạt động tại Việt Nam để thực hiện mục tiêu giải quyết vấn đề xã hội, môi trường.

Trình tự, thủ tục tiếp nhận các khoản tài trợ quy định nêu trên được thực hiện như sau: (i) Việc tiếp nhận tài trợ phải lập thành văn bản. Văn bản tiếp nhận tài trợ phải có các nội dung: Thông tin về cá nhân, tổ chức tài trợ, loại tài sản, giá trị tài sản hoặc tiền tài trợ, thời điểm thực hiện tài trợ, yêu cầu đối với doanh nghiệp tiếp nhận tài trợ, họ, tên và chữ ký của người đại diện có thẩm quyền của các bên. (ii) Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày văn bản tiếp nhận tài trợ được ký kết, doanh nghiệp phải

thông báo cho Sở Kế hoạch và Đầu tư hoặc cơ quan quản lý viện trợ, tài trợ thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi tắt là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) nơi doanh nghiệp có trụ sở chính về việc tiếp nhận tài trợ; kèm theo thông báo phải có bản sao văn bản tiếp nhận tài trợ. Trường hợp nội dung văn bản tiếp nhận tài trợ quy định trong phần (i) này có thay đổi, DNXH phải thông báo cho Sở Kế hoạch và Đầu tư hoặc cơ quan quản lý viện trợ, tài trợ thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi doanh nghiệp có trụ sở chính về những nội dung thay đổi theo trình tự, thủ tục quy định trong phần (ii) nêu trên.

Bên cạnh đó, theo quy định tại Khoản 2 Điều 10 LDN 2020, DNXH không được sử dụng các khoản tài trợ huy động được cho mục đích khác ngoài bù đắp chi phí quản lý và chi phí hoạt động để giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường mà doanh nghiệp đã đăng ký. Trường hợp được nhận các ưu đãi, hỗ trợ, DNXH phải định kỳ hàng năm báo cáo cơ quan có thẩm quyền về tình hình hoạt động của doanh nghiệp. DNXH phải duy trì mục tiêu xã hội, môi trường, mức lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư và nội dung khác ghi tại Cam kết thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường trong suốt quá trình hoạt động. Trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ Cam kết thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường và mức lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư, DNXH phải hoàn lại toàn bộ các ưu đãi, khoản viện trợ, tài trợ dành riêng cho DNXH Đồng thời, chủ doanh nghiệp tư nhân đối với doanh nghiệp tư nhân, thành viên đối với công ty hợp danh và công ty trách nhiệm hữu hạn, cổ đông đối với công ty cổ phần đã ký tên trong Cam kết thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường và thành viên Hội đồng quản trị công ty cổ phần chịu trách nhiệm liên đới hoàn lại các ưu đãi, tài trợ đã nhận và bồi thường các thiệt hại phát sinh trong trường hợp vi phạm quy định này.

Các quy định nêu trên của pháp luật Việt Nam cũng có nhiều điểm không hoàn toàn giống với pháp luật một số nước về DNXH. Cụ thể:

Như đã phân tích ở trên, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế- xã hội và định hướng chính sách của từng nước mà DNXH có thể hoạt động dưới nhiều hình thức pháp lý khác nhau. Theo hướng này, sự hiện diện của mô hình DNXH là rất đa dạng và việc thành lập, hoạt động dưới hình thức nào tùy thuộc vào điều kiện của chính những nhà kinh doanh. Việc xác định rõ bản chất và tiếp cận công bằng trong thành lập và hoạt động của doanh nghiệp xã hội so với các tổ chức và các loại hình doanh nghiệp khác có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển về số lượng và chất lượng của DNXH [34].

Hình thức pháp lý của doanh nghiệp sẽ có ảnh hưởng quyết định đến cơ cấu tổ chức, hoạt động, chế độ quản trị và giới hạn trách nhiệm của doanh nghiệp. Do đó, hầu

hết các nước không quy định một mô hình duy nhất về tổ chức, hoạt động áp dụng cho DNXH. DNXH tồn tại dưới hình thức nào vận hành theo cơ chế tương ứng của loại hình doanh nghiệp đó. Ví dụ, DNXH thành lập dưới hình thức công ty cổ phần sẽ có tổ chức, hoạt động theo mô hình công ty cổ phần; dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn sẽ tuân thủ các quy định liên quan đến công ty trách nhiệm hữu hạn. Mặc dù vậy, khi cân nhắc tới những đặc thù của DNXH, đặc biệt là điểm khác biệt ở mục tiêu xã hội và hướng đến phục vụ nhu cầu của nhóm dễ bị tổn thương trong xã hội, một số quốc gia đã cải tiến các hình thức pháp lý truyền thông để hình thành những mô hình riêng cho DNXH có thể lựa chọn. Điển hình cho cách tiếp cận này là Anh quốc với sự “sáng tạo” của các nhà làm luật khi cho ra đời mô hình CIC. Trong quá trình hoạt động, CIC chịu sự điều chỉnh của một số quy định riêng, khác với các công ty truyền thống.

Thứ nhất, những người quản lý CIC có nghĩa vụ đảm bảo cân bằng giữa lợi ích của nhà đầu tư và mục tiêu vì cộng đồng đã được đặt ra. So với các mô hình công ty truyền thống, người quản lý CIC có nghĩa vụ chặt chẽ hơn trong việc xem xét tới lợi ích của cộng đồng mà công ty hướng tới cũng như các đối tượng có lợi ích liên quan trong quá trình ra quyết định kinh doanh [148].

Thứ hai, CIC chịu một số quy định nhằm hạn chế việc chuyển nhượng tài sản (tài sản của công ty sẽ được pháp luật bảo vệ và duy trì cho các hoạt động phục vụ lợi ích cộng đồng). Cụ thể, tài sản của công ty không thể chuyển nhượng ra bên ngoài CIC, trừ khi đạt được một mức giá thị trường công bằng (fair market value) hoặc việc chuyển nhượng tài sản là vì lợi ích cộng đồng. Ngoài ra, ít nhất 65% lợi nhuận của công ty phải được dành để tái đầu tư vào cộng đồng hoặc được sử dụng cho cộng đồng. Pháp luật cũng đặt ra một số giới hạn trong trường hợp mua lại phần vốn góp, giảm vốn hoặc vay tiền từ các tổ chức khác [72].

Thứ ba, Cơ quan quản lý CIC được thành lập để giám sát hoạt động của CIC, đảm bảo công ty theo đuổi đúng mục tiêu đã đăng ký, minh bạch và rõ ràng trong quá trình hoạt động. Cơ quan này có thể chỉ định kiểm toán viên để kiểm tra hoạt động của CIC và cũng có quyền thực hiện các biện pháp thực thi nếu cho rằng CIC không đáp ứng yêu cầu hoạt động vì lợi ích cộng đồng hoặc có sự sai lệch trong hoạt động, quản lý CIC. Cụ thể, Cơ quan này có quyền khởi kiện nhân danh CIC (ví dụ khởi kiện người điều hành công ty do vi phạm nghĩa vụ), chỉ định hoặc miễn nhiệm các chức danh quản lý trong công ty [69].

Thứ tư, để đảm bảo tính minh bạch trong hoạt động của CIC, công ty này phải chuẩn bị một Bản mô tả lợi ích cộng đồng (Community Interest Statement) trong báo cáo

hàng năm, trong đó nêu rõ công ty dự định sẽ thực hiện các hoạt động vì cộng đồng như thế nào. Ngoài ra, báo cáo cũng phải làm rõ mức lương của người quản lý doanh nghiệp, tỷ lệ chia lợi nhuận, và mức độ tham gia của cộng đồng (mà công ty hướng tới) trong hoạt động của công ty [148].

Trong khi đó, tại Hoa Kỳ, với sự tồn tại của đa dạng các hình thức pháp lý được “thiết kế” cho các doanh nghiệp hướng tới mục tiêu xã hội như SPC, BC, L3C, BLLC, quy định về tổ chức và kiểm soát hoạt động của các mô hình này cũng có một số điểm khác biệt. Ví dụ mô hình SPC được tổ chức và vận hành theo mô hình công ty cổ phần truyền thống, tuy nhiên có một số điểm khác biệt sau đây.

Thứ nhất, mục tiêu xã hội của SPC được đặt lên trên mục tiêu tối đa hóa tài sản của chủ sở hữu. SPC có thể đặt mục tiêu tạo ra lợi ích công cộng nói chung hoặc có thể theo đuổi một lợi ích xã hội cụ thể. Mục tiêu này được quy định cụ thể theo quy định của luật hoặc trong điều lệ công ty. Ví dụ, tại bang California, SPC có mục tiêu cụ thể là phải theo đuổi “các hoạt động từ thiện hoặc hoạt động vì mục đích công cộng mà một doanh nghiệp phi lợi nhuận được theo đuổi” hoặc có thể theo đuổi mục tiêu “thúc đẩy những ảnh hưởng tích cực hoặc hạn chế các tác động tiêu cực” của doanh nghiệp đối với nhân viên, nhà cung cấp, đối tác, cộng đồng, xã hội và môi trường [67]. Tại Florida, SPC có mục tiêu là tạo ra lợi ích công cộng, có thể là “tạo ra ảnh hưởng tích cực hoặc hạn chế tác động tiêu cực đối với môi trường hoặc đối với một hoặc một số nhóm người hoặc tổ chức” [68]. Những tác động này không chỉ giới hạn ở tác động về mặt xã hội, giáo dục, môi trường, kinh tế mà còn mở rộng tới các khía cạnh nghệ thuật, văn học, văn hóa và sinh thái. Khi thành lập, công ty có thể lựa chọn một hoặc một số mục đích công cộng mà mình muốn theo đuổi. Những quy định tương tự cũng được tìm thấy trong pháp luật doanh nghiệp của bang California [68].

Thứ hai, người quản lý doanh nghiệp có quyền ra quyết định vì những mục đích cụ thể mà không vi phạm nguyên tắc tối đa hóa lợi nhuận cho cổ đông. Trong khi vẫn thừa nhận nguyên tắc chung trong CTCP là hội đồng quản trị phải chịu trách nhiệm với cổ đông trong quá trình ra quyết định kinh doanh, pháp luật thừa nhận rằng đối với mô hình SPC, trong nhiều trường hợp, tối đa hóa lợi ích của cổ đông không phải là mục tiêu ưu tiên hàng đầu chi phối quyết định của hội đồng quản trị. Từ năm 2015, luật pháp bang California đã sửa đổi, bổ sung quy định là thành viên hội đồng quản trị trong SPC “phải xem xét và thực hiện quyền tự quyết để thúc đẩy các mục tiêu xã hội đặc biệt của công ty” [67]. Quy định này không chỉ tạo ra quyền linh hoạt nhất định đối với thành viên hội đồng quản trị mà mặt khác còn đặt thêm nghĩa vụ đối với thành viên hội đồng quản trị

của SPC: bên cạnh nghĩa vụ trung thành với cổ đông như trong CTCP thì họ cũng phải dành sự quan tâm và ưu tiên cho với các sứ mệnh xã hội mà công ty theo đuổi. Quy định chi tiết hơn được tìm thấy trong Đạo luật về SPC của Florida, theo đó thành viên hội đồng quản trị trong quá trình ra quyết định phải xem xét khả năng “đạt được mục tiêu lợi ích công cộng hoặc bất cứ mục tiêu nào vì lợi ích công cộng cụ thể” và được phép cân nhắc tới (1) quyền lợi của “nhân viên và lực lượng lao động” trong công ty cũng như quyền của chi nhánh, nhà cung cấp, (2) lợi ích của khách hàng và nhà cung cấp, (3) các yếu tố ảnh hưởng tới xã hội và cộng đồng, (4) môi trường địa phương và môi trường toàn cầu, và (5) lợi ích ngắn hạn và dài hạn của chính doanh nghiệp [68]. Bằng quy định này, pháp luật cho phép người quản trị khi ra quyết định không chỉ dựa trên mục tiêu, sứ mệnh xã hội của doanh nghiệp mà còn có thể xem xét tổng hòa các yếu tố ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của các đối tượng bị ảnh hưởng, từ những đối tượng trực tiếp như người lao động, khách hàng, nhà cung cấp tới các nhóm đối tượng rộng hơn là cộng đồng, xã hội và môi trường. Tuy nhiên có một sự khác nhau cơ bản là trong khi mục tiêu xã hội của doanh nghiệp là yếu tố bắt buộc phải được cân nhắc trong quá trình ra quyết định thì các yếu tố khác chỉ là tùy nghi. Rất tiếc quy định pháp luật này cũng chưa làm rõ mức độ quan tâm mà người quản trị cần dành cho các mục tiêu xã hội hoặc quyền lợi của những đối tượng liên quan trong mối quan hệ với lợi ích của cổ đông. Về điểm này, bang Washington đưa ra quy định rõ ràng hơn. Cụ thể, trong Giấy chứng nhận thành lập SPC phải ghi rõ ràng sứ mệnh của SPC không nhất thiết phải đi cùng và thậm chí có thể mâu thuẫn với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận và thu nhập cho cổ đông, hoặc tối đa hóa giá trị cổ phiếu. Các nhà quản trị được phép xem xét và dành sự ưu tiên cho một hoặc một số mục đích xã hội của công ty mà họ cho là có liên quan [70].

Thứ ba là quy định tăng cường tính minh bạch nhằm đảm bảo việc thực hiện mục đích xã hội của công ty. Luật quy định cụ thể về việc yêu cầu SPC phải chuẩn bị các thông tin liên quan nhằm đánh giá quá trình và cách thức các công ty này thực hiện mục đích xã hội đã đề ra. Tại bang California, trong các báo cáo thường niên, SPC phải nộp thêm một bản thảo luận và phân tích về việc quản lý và thực hiện mục đích xã hội cụ thể mà SPC đã đề ra. Các thông tin cần thiết bao gồm những hành động đã được thực hiện, chi phí phát sinh để đạt được mục tiêu đặc biệt của SPC. Thành viên hội đồng quản trị cũng phải cung cấp các báo cáo cho cổ đông khi phát sinh các vấn đề liên quan tới việc thực hiện mục tiêu xã hội, ví dụ như khi SPC phân bổ nguồn lực của công ty để thực hiện các mục đích xã hội [72]. Quy định tương tự được thấy ở bang Florida khi thành viên hội đồng quản trị phải chuẩn bị báo cáo thường niên, trong đó nêu rõ cách thức mà

SPC đã theo đuổi các lợi ích công cộng, mức độ đạt được và bất cứ điều kiện hoàn cảnh nào có thể gây cản trở việc đạt được các lợi ích này [68]. Trong khi đó, mặc dù cùng khai thác được những lợi thế vốn có của CTCP trong việc huy động vốn, mô hình BC lại có một số điểm khác biệt nhất định so với SPC (phụ lục 2)

Bên cạnh mô hình CTCP, dựa trên loại hình CTTNHH, L3C được hưởng các điều kiện về cơ cấu tổ chức và nghĩa vụ báo cáo dễ dàng hơn (so với SPC và BC là loại hình CTCP). Ngoài ra, những người quản lý L3C có thể quảng bá doanh nghiệp (nhờ gắn với mục tiêu từ thiện) và có thể đặt sứ mệnh nhân văn đó lên trên mục tiêu lợi nhuận trong quá trình ra quyết định kinh doanh mà không lo ngại bị khiếu kiện bởi chủ sở hữu doanh nghiệp. Dù vậy, các quy định pháp luật về L3C còn một số điểm chưa rõ, thiếu các tiêu chí rõ ràng để phân định giữa hoạt động kinh doanh phải chịu thuế và hoạt động từ thiện được miễn thuế trong L3C cũng như chưa có cơ chế quản lý và giám sát để đảm bảo L3C tuân thủ đúng sứ mệnh đã đăng ký [72].

Tóm lại, trong khi không đưa ra một định nghĩa pháp lý cho DNXH, việc tổ chức hoạt động của DNXH sẽ phụ thuộc vào hình thức pháp lý mà doanh nghiệp đó đăng ký thành lập. Một điểm cần lưu ý là sự khác biệt trong quy định pháp luật của các bang. Không phải tất cả các bang của Hoa Kỳ đều thừa nhận địa vị pháp lý của cả bốn loại hình SPC, BC, L3C và BLLC. Ngoài ra, ngay cả trong trường hợp một loại hình được thừa nhận ở nhiều bang khác nhau thì quy định về tổ chức hoạt động của loại hình đó cũng có thể khác biệt giữa các bang.

b, Các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với doanh nghiệp xã hội

- Các quy định về ưu đãi thuế đối với DNXH

Theo pháp luật hiện hành quy định hướng dẫn về DNXH, Chính phủ không có một điều khoản nào quy định chi tiết về ưu đãi thuế của DNXH. Tuy nhiên, từ những phân tích trên chúng ta có thể hiểu được các ưu đãi thuế của DNXH trước tiên tương tự như các DN truyền thống bởi vì nó là một loại hình doanh nghiệp được thừa nhận trong LDN 2020. Các ưu đãi này không phải mọi doanh nghiệp đều nhận được mà chỉ khi đáp ứng được những theo luật định. Cụ thể là:

(i) DNXH hoạt động trong lĩnh vực khoa học, công nghệ được hưởng các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp như sau:

Doanh nghiệp thực hiện dự án đầu tư mới trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học và công nghệ được hưởng thuế suất ưu đãi 10% trong thời hạn 15 năm (điểm b Khoản 1 Điều 11 Thông tư số 96/2015/TT-BTC)

Xem tất cả 187 trang.

Ngày đăng: 15/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí