Bộ Các Vấn đề Tiêu dùng, Lương thực thực phẩm và Phân phối các Hàng hoá công cộng) chịu trách nhiệm, tại Việt Nam cho đến nay là Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường và Chất lượng (thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ) [14]
Cách thứ hai mang tính ngăn chặn, phòng ngừa, trước khi xảy ra vi phạm, theo đó các bên liên quan phải chịu phạt kể cả trước khi có thiệt hại thực sự, do đã vi phạm các quy định về tiêu chuẩn. Theo cách này, một hệ thống quy chuẩn phải được thiết lập, không liên quan đến việc có xảy ra thiệt hại thực sự cho NTD hay không. Các vụ việc đơn lẻ, hay cả một nhóm các vấn đề, đều có thể được điều chỉnh bởi các quy định chuẩn chung này, giảm thiểu khả năng xảy ra việc phải phân định đúng sai, hay giúp tránh các phán quyết không nhất quán và thiếu công bằng trên cơ sở vụ việc. Các bên liên quan sẽ phải chịu phạt chỉ khi các cơ quan chức năng phát hiện được rằng họ không tuân thủ các quy định về tiêu chuẩn. Và trong đại đa số các trường hợp, các cơ quan chức năng sẽ sử dụng các thủ tục hành chính để xem xét các thông tin kỹ thuật có liên quan, nhằm đi đến kết luận cuối cùng. Hệ thống quy định trách nhiệm pháp lý liên quan đến bảo vệ NTD thường bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến các quyền cơ bản của NTD, trách nhiệm sản phẩm, các hành vi thương mại không công bằng, giải quyết tranh chấp tiêu dùng và các chế tài áp dụng. Đây là các quy định thường gặp nhất trong bất kỳ một đạo luật hay bộ luật về bảo vệ NTD nào trên thế giới. Các vụ việc liên quan đến trách nhiệm pháp lý thường do các toà án chung, các toà chuyên biệt về NTD, hay các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ NTD có chức năng xét xử áp dụng và thực thi.
Xét thấy cả hai hệ thống bảo vệ NTD ở trên, có thể nói rằng không có hệ thống nào có thể loại bỏ hoàn toàn rủi ro cho NTD. Hệ thống quy định tiêu chuẩn không thể làm được điều này, do các cơ quan chức năng không có đủ thông tin về các hành vi vi phạm quy định của các doanh nghiệp, cũng như chi phí thực thi cao, v.v. Trái lại, hệ thống quy trách nhiệm pháp lý lại thất bại do các bên liên quan có thể không đủ khả năng bồi thường thiệt hại, hoặc cơ quan phân xử không thể buộc tội họ do bằng chứng không thuyết phục hoặc các thủ tục pháp lý phức tạp. Bên cạnh đó, những điểm chung của hai hệ thống này cũng đặt ra yêu cầu xem xét khả năng kết hợp cả hai lại thành một hệ thống pháp lý bảo vệ NTD tối ưu nhất, để giảm thiểu các nguy cơ thiệt hại cho NTD. Đây là một thực tế thường thấy tại hầu hết các quốc
gia trên thế giới như Pháp, Canada, Hàn Quốc, Malaysia….. Luật bảo vệ NTD, chủ yếu bao gồm các điều khoản quy trách nhiệm pháp lý, thường được bổ sung bởi quy định của các văn bản quy phạm pháp luật khác, ví dụ như về tiêu chuẩn, an toàn, bảo hiểm, sức khoẻ, v.v. Cách tiếp cận này giúp đảm bảo tính chuyên biệt của từng lãnh vực pháp lý khác nhau, giúp các cơ quan thực thi tập trung vào chuyên môn của mình, tuy có mặt trái là tính rời rạc, đôi khi có thể dẫn đến không nhất quán, hay xung đột pháp lý. Ngược lại, tham vọng đưa quá nhiều các vấn đề khác nhau vào cùng một đạo luật về bảo vệ NTD có thể làm giảm hiệu quả pháp lý của các điều khoản, hay tăng chi phí thực thi của cơ quan thực thi hay hệ thống tư pháp.
Với Việt Nam, do thực tiễn áp dụng cho thấy bản chất mối quan hệ giữa chủ thẻ
- NTD và NHTM - nhà cung cấp dịch vụ là một quan hệ hợp đồng dân sự nơi mà sự thoả thuận giữa các chủ thể được đề lên cao nhất thì phương pháp xây dựng pháp luật sẽ nên trọng việc xây dựng một hệ thống pháp lý trong đó quy định trách nhiệm pháp lý đối với các bên sau khi đã xảy ra vi phạm để phù hợp với bản chất mối quan hệ giữa hai bên. Tuy nhiên cũng có thể kết hợp theo hướng kết hợp tối đa hai hệ thống này, theo đó sẽ:
(i) Đối với các quy định về tiêu chuẩn, an toàn của NTD như các loại phí sử dụng thẻ, yêu cầu kỹ thuật về an toàn bảo mật với trang thiết bị phục vụ thanh toán thẻ ngân hàng, vấn đề bảo mật thông tin… hiện đang được điều chỉnh tại các văn bản pháp luật khác thì sẽ quy định theo hướng dẫn chiếu.
(ii) Đối với các vấn đề liên quan đến bảo vệ NTD chưa được quy định tại các văn bản nào như: hợp đồng phát hành, trách nhiệm với sản phẩm dịch vụ…quy định không rõ ràng thì sẽ được làm rõ tại Luật BVNTD.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm pháp luật bảo vệ NTD sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại NHTM như sau: Pháp luật bảo vệ NTD sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại NHTM là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hàng và bảo đảm thực hiện, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa NTD sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại NHTM và ngân hàng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NTD
1.4.2. Đặc điểm pháp luật về bảo vệ NTD sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại NHTM ở Việt Nam.
Có thể bạn quan tâm!
- Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng thương mại ở Việt Nam - 1
- Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại Ngân hàng thương mại ở Việt Nam - 2
- Sự Cần Thiết Phải Bảo Vệ Quyền Lợi Ntd Sử Dụng Dịch Vụ Thẻ Ghi Nợ Nội Địa Tại Nhtm Ở Việt Nam.
- Chương 2: Thực Trạng Pháp Luật Về Bảo Vệ Quyền Lợi Người Tiêu Dùng Sử Dụng Dịch Vụ Thẻ Tại Nhtm Ở Việt Nam
- Nhân Viên, Người Quản Lý, Người Điều Hành Của Tổ Chức Tín Dụng, Chi Nhánh Ngân Hàng Nước Ngoài Không Được Tiết Lộ Bí Mật Kinh Doanh Của Tổ Chức
- Thực Trạng Pháp Luật Về Giải Quyết Tranh Chấp Giữa Người Sử Dụng Dịch Vụ Thẻ Ghi Nợ Nội Địa Với Nhtm.
Xem toàn bộ 81 trang tài liệu này.
Thứ nhất, pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại NHTM là một bộ phận của pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD. Như đã phân tích ở trên, người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại NHTM được coi là NTD trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Quan hệ giữa tổ chức cá nhân cung ứng hàng hoá, dịch vụ và NTD nói chung, giữa chủ thẻ và NHTM - tổ chức phát hành nói riêng được coi là quan hệ bất bình đẳng. NHTM được coi là bên có thế mạnh, người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa bị coi là bên yếu thế do NHTM là tổ chức, có trình độ hiểu biết cao hơn, là chủ thể cung cấp dịch vụ và chủ yếu đều có sẵn các hợp đồng mẫu do họ tự soạn thảo nên họ có khả năng chủ động tự vệ trong quan hệ hợp đồng. Người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại NHTM thì chủ yếu là cá nhân, mức độ hiểu biết về các sản phẩm tài chính thường thấp hơn, khả năng tự bảo vệ mình trong quan hệ hợp đồng với NHTM thường thấp hơn. Vì vậy, hệ thống pháp luật bảo vệ quyền lợi người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại NHTM chính là một bộ phận hợp thành pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD.
Thứ hai, pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại NHTM được hợp thành bởi nhiều quy phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau (pháp luật dân sự, pháp luật ngân hàng, pháp luật tài chính…). Hiện nay ở Việt Nam chưa có pháp luật chuyên biệt về bảo vệ quyền lợi NTD sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại NHTM mà hệ thống quy phạm pháp luật này nằm rải rác trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Chúng được quy định tại Luật bảo vệ quyền lợi NTD 2010; nghị định Chính phủ số 99/2011/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết Luật bảo vệ NTD 2010; thông tư số 19/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động thẻ ngân hàng; nghị định số 124/2015/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của nghị định số 185/2013 về xử phạt vi phạm hành chính sản xuất buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi NTD; quyết định số 35/2015/QĐ-TTg sửa đổi quyết định số 02/2012/QĐ-TTg về danh mục hàng hoá, dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung do Thủ tướng Chính phủ Ban hành… Do đó, thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại NHTM là thực hiện các quy định trong các văn bản khác nhau, là trách
nhiệm của các chủ thể khác nhau trong xã hội. Chính vì vậy, để đảm bảo thực hiện hiệu quả và đồng bộ hệ thống pháp luật này cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các chủ thể pháp luật đó.
1.4.3. Nội dung pháp luật về bảo vệ NTD sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại NHTM ở Việt Nam
Ngân hàng là một tổ chức tài chính trung gian huy động vốn, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán cho khác hàng. Mọi hoạt động của NHTM đều nhằm mục tiêu lợi nhuận và hoạt động cấp dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa cũng không nằm ngoài mục đích đó. Với việc cung cấp dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa, NHTM mong muốn nhận được những lợi ích sau: làm thế nào để tối đa hoá các khoản lệ phí hàng năm mà chủ thẻ phải nộp để hưởng dịch vụ thanh toán do ngân hàng cung cấp để tạo một nguồn thu đều đặn, quy định về số dư bắt buộc thế nào để có thêm được một nguồn huy động từ tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng thông qua số dư bắt buộc theo quy định trong tài khoản của chủ thẻ tại ngân hàng, triển khai việc ra sao để mở rộng địa bàn hoạt động của ngân hàng thông qua việc đặt các máy ATM hoặc liên hệ các cơ sở chấp nhận thẻ mới... Trên thực tế, nếu ngân hàng muốn tối đa hoá lợi ích của mình thông qua việc cung cấp dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa, không thế tránh khỏi những xâm phạm đến quyền lợi của đối tượng sử dụng dịch vụ đó, chính là chủ thẻ trong vai trò NTD.
Về phía người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa của ngân hàng, họ lại quan tâm đến những vấn đề sau: họ có được đảm bảo một cách hợp lý để sử dụng được tiền từ tài khoản của mình khi họ muốn hay không? Cơ chế nào mà họ có thể có được để bảo vệ quyền lợi của họ để kiểm soát được các hành vi sử dụng tiền của ngân hàng? Các ưu đãi nào ngân hàng đưa ra để đảm bảo được quyền lợi cho người sử dụng dịch vụ?...Nghĩa là sự quan tâm cơ bản của người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa là việc bảo đảm an toàn cho những hoạt động của họ trong quá trình giao dịch thẻ. So với những NTD khác trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa ở vị thế hưởng lợi tương đối ít từ sự tăng trưởng nhanh của ngân hàng hoặc việc theo đuổi các khoản lợi nhuận tương đối rủi ro. Mặt
khác, người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa lại phải chịu phần thiệt hại tương đối lớn nếu ngân hàng có vấn đề với việc bảo mật thông tin.
Do vậy, đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng và bảo vệ người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa là vấn đề quan trọng và cần thiết. Nhà nước với vai trò to lớn trong việc giảm nhẹ xung đột các lợi ích này đã thông qua công cụ luật pháp và công cụ kinh tế tài chính, giúp ngăn chặn sự mạo hiểm quá mức của các ngân hàng mà cuối cùng chuyển rủi ro đến những NTD. Về khía cạnh này, các cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng là người hành động đứng về phía người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa.
Từ những phân tích về mối quan tâm cũng như lợi ích mong muốn nhận được của các chủ thể khi tham gia quan hệ giao dịch thẻ, nội dung pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD cần bao gồm các vấn đề sau:
(i) Thứ nhất, các quy định về phòng tránh rủi ro, đảm bảo an toàn cho người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại NHTM. Đây là nội dung rất quan trọng của pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại NHTM. Lĩnh vực tài chính, tiền tệ là lĩnh vực nhạy cảm, tiềm ẩn nhiều rủi ro, với bất cứ động thái nào của thiết chế tài chính này kéo theo hậu quả khôn lường cho nền kinh tế. Hơn nữa, trong quan hệ hợp đồng dân sự, những rủi ro có thể đến với NTD, nhưng họ lại không kiểm soát được rủi ro đó. Vì thế, để bảo vệ quyền lợi người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại NHTM và đảm bảo sự phát triển ổn định của nền kinh tế, pháp luật cần đưa ra các biện pháp phòng tránh rủi ro và đảm bảo an toàn cho NTD. Các quy định phòng tránh rủi ro và đảm bảo an toàn này nên tập trung điều chỉnh các hoạt động gắn liền nhất với NTD sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa như ký kế hợp đồng phát hành, việc điều chỉnh phí sử dụng các dịch vụ liên quan đến giao dịch thẻ, việc đảm bảo an toàn trong quá trình giao dịch thẻ, điều kiện an toàn với việc sử dụng cây ATM…
(ii) Thứ hai, các quy định về phương thức giải quyết tranh chấp giữa NHTM và người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa. Trong bất kỳ
quan hệ hợp đồng nào, khi thiện chí và tự nguyện giao kết, các bên đều mong muốn hợp đồng được thực hiện theo đúng như thoả thuận nhằm mang lại lợi ích lớn nhất cho các bên. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp, chủ thể các bên trong quan hệ hợp đồng vì nhiều nguyên nhân khác nhau vi phạm nội dung đã thoả thuận làm ảnh hưởng tới quyền lợi của chủ thể còn lại. Hơn nữa, trong quan hệ hợp đồng giao dịch thẻ này, người sử dụng dịch vụ được đặt ở vị thế người yếu thế hơn, nên nếu xảy ra tranh chấp hợp đồng giữa NHTM và NTD thì chủ yếu do NHTM xâm phạm quyền lợi của NTD. Vì vậy, pháp luật phải xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp giữa NTD sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa và NHTM. Hiện nay có bốn phương pháp giải quyết tranh chấp được quy định tại Chương 4 Luật bảo vệ NTD 2010. Ngoài ra còn các quy định về xử phạt hành chính tại Nghị định 185/2013/NĐ-CP và nghị định số 124/2015/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của nghị định số 185/2013 về xử phạt vi phạm hành chính sản xuất buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi NTD.
(iii) Thứ ba, các quy định về cơ quan bảo vệ quyền lợi NTD. Đây được đánh giá là nội dung quan trọng nhất của pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD. Do NTD được đánh giá là bên yếu thế trong quan hệ hợp đồng giao dịch thẻ với đặc điểm hạn chế về thông tin, về kiến thức chuyên môn, về khả năng đàm phán hợp đồng nên tự bản thân họ rất ít hoặc không có khả năng tự bảo vệ mình trong việc ký kết hợp đồng, sử dụng dịch vụ cũng như giải quyết tranh chấp. Chính vì vậy, các cơ quan Nhà nước có nhiệm vụ bảo vệ NTD với vai trò là đại diện của quyền lực chính trị là chủ thể quan trọng trong việc làm việc đòi lại quyền lợi hợp pháp cho NTD. Hiện nay, pháp luật bảo vệ NTD của Việt Nam cũng đã có quy định cụ thể về nhiệm vụ của các Cơ quan nhà nước trong việc bảo vệ NTD như Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công thương…Ngoài ra còn đẩy mạnh vai trò của các Hội bảo vệ quyền lợi NTD trong việc đại diện NTD đứng ra giành lại quyền lợi chính đáng của mình. Việc thực hiện những quy định trên cũng khá khả quan trên thực tế như mạng lưới tổ chức Hội bảo vệ quyền lợi NTD đã được phát triển rộng đến cấp huyện, giúp đưa
các tổ chức này đến gần với NTD ở các cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hỗ trợ NTD. Hơn nữa, giữa các cơ quan quản lý nhà nước như: Cục quản lý cạnh tranh, Hội đồng cạnh tranh, Bộ Công thương…đã có sự phối hợp nhịp nhàng, hỗ trợ lẫn nhau trong công tác bảo vệ lợi ích NTD. Mới đây, Cục quản lý cạnh tranh cũng đã đa dạng hóa các phương thức hỗ trợ, tư vấn và tiếp nhận khiếu nại từ NTD, với mong muốn giúp NTD có thể thực hiện được các quyền lợi của mình. Theo đó, NTD có thể gọi điện đến tổng đài hỗ trợ, tư vấn; có thể gửi những thắc mắc, khiếu nại đến trang web bảo vệ quyền lợi NTD hay địa chỉ email của Cục quản lý cạnh tranh; hoặc cũng có thể gửi khiếu nại qua đường bưu điện, hay đến nộp trực tiếp tại địa chỉ của Cục quản lý cạnh tranh.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong chương 1, người viết đã trình bày những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại NHTM ở Việt Nam. Trong đó làm rõ khái niệm, đặc điểm “NTD sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại NHTM” và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của người sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa. Đồng thời phân tích các quyền, lợi ích cơ bản của NTD, sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi NTD, qua đó đưa ra các biện pháp bảo vệ quyền lợi NTD. Trên cơ sở đó, người viết nêu ra nội dung pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại NHTM bao gồm các thiết chế hữu hiệu là các cơ quan Nhà nước, các hiệp hội bảo vệ quyền lợi NTD, NHTM và chính từ phía NTD. Những lý luận trên là cơ sở giúp chúng ta đi sâu nghiên cứu thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD sử dụng dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa tại NHTM ở Việt Nam ở chương tiếp theo của khoá luận.