Cơ Chế Điều Hành Và Giám Sát Thị Trường Chứng Khoán

TTCK là thị trường vốn dài hạn, tập trung các nguồn vốn cho đầu tư và phát triển kinh tế, do đó có tác động rất lớn đến môi trường đầu tư nói riêng và tới nền kinh tế nói chung. Mặt khác, TTCK là thị trường cao cấp, nơi tập trung nhiều đối tượng tham gia với các mục đích, sự hiểu biết và lợi ích khác nhau; các giao dịch các sản phẩm tài chính với giá trị rất lớn. Đặc tính đó khiến cho TTCK cũng là môi trường dễ xảy ra các hoạt động kiếm lời không chính đáng thông qua các hoạt động gian lận, không công bằng gây tổn thất cho các nhà đầu tư, tổn thất cho thị trường và cho toàn bộ nền kinh tế.

Xuất phát từ vai trò quan trọng cũng như tính chất phức tạp như vậy của TTCK, việc điều hành và giám sát là vô cùng cần thiết để đảm bảo được tính hiệu quả, công bằng, lành mạnh trong hoạt động của thị trường, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhà đầu tư, dung hòa lợi ích của tất cả những người tham gia thị trường, tận dụng và duy trì được các nguồn vốn để phát triển kinh tế. Mỗi thị trường có cơ chế điều hành và giám sát thị trường riêng phù hợp với các tính chất và đặc điểm riêng của nó.

1.2. Cơ chế điều hành và giám sát thị trường chứng khoán

Tại mỗi nước, việc điều hành và giám sát TTCK được tổ chức ở nhiều cấp độ khác nhau. Nhìn chung các tổ chức tham gia quản lý và giám sát TTCK gồm 02 nhóm: Các cơ quan quản lý của Chính Phủ và các tổ chức tự quản.

Các cơ quan quản lý của Chính phủ

Đây là các cơ quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với hoạt động của TTCK. Nhìn chung các cơ quan quản lý thị trường của Chính phủ chỉ thực hiện chức năng quan lý chung chứ không trực tiếp điều hành và giám sát thị trường. Các cơ quan này có thẩm quyền ban hành các quy định điều chỉnh các hoạt động của TTCK tạo nên cơ sở cho các tổ chức tự quản trực tiếp thực hiện các chức năng điều hành và giám sát thị trường của mình. Nhìn chung, các cơ quan quản lý thị trường của Chính phủ gồm Uỷ ban chứng khoán và một số bộ ngành có liên quan.

Uỷ ban chứng khoán là cơ quan quản lý chuyên ngành của Nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán, với các chức năng sau:

- Thực hiện các quy chế, quy định về quản lý ngành chứng khoán của Chính phủ, Bộ tài chính và phối hợp với các tổ chức liên quan để điều hành và giám sát có hiệu quả hoạt động của TTCK.

- Kiểm soát và giám sát các hoạt động trên thị trường như đăng ký, lưu ký chứng khoán, giám sát các công ty niêm yết, và phát hiện, xử lý các trường hợp gian lận trong hoạt động kinh doanh chứng khoán.

- Quản lý trực tiếp các tổ chức tự quản, giám sát hoạt động của các tổ chức này.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.

- Thanh tra đối với các tổ chức hay cá nhân để bảo vệ lợi ích của công chúng trong trường hợp có sự vi phạm phát luật.

Bên cạnh Uỷ ban chứng khoán, một số bộ, ngành cũng có chức năng tham gia quản lý một số lĩnh vực có liên quan đến TTCK. Ví dụ như: Bộ tài chính quản lý các vấn đề về kế toán, kiểm toán phục vụ phát hành và công khai thông tin công ty, phát hành trái phiếu quốc tế,NHNN quản lý các NHTM thực hiện kinh doanh chứng khoán, đề ra các nguyên tắc để phân tách nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ và kinh doanh chứng khoán; Bộ tư pháp có liên quan đến việc xử lý các gian lận trên TTCK,

Phân tích thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2008 - diễn biến thị trường và nguyên nhân của sự sụt giảm. Dự báo xu hướng trong năm 2009 - 4

Các tổ chức tự quản

Các tổ chức tự quản hình thành cùng với sự phát triển của TTCK, thực hiện chức năng điều hành và giám sát TTCK nhằm bảo vệ lợi ích chung của toàn thị trường. Các tổ chức tự quản thực hiện quản lý và giám sát thị trường trên cơ sở tuân thủ các quy định của các tổ chức quản lý và giám sát thị trường của Chính phủ. Một tổ chức tự quản hoạt động dựa trên 02 nguyên tắc:

- Các quyết định điều hành đưa ra phải đúng đắn, phù hợp hoàn cảnh thực tế, hoạt động giám sát thị trường phải có hiệu quả.

- Chi phí điều hành, giám sát thị trường phải thu được từ các hoạt động trên thị trường chứ không phải do ngân sách cấp.

Hoạt động điều hành và giám sát TTCK của các tổ chức tự quản bao gồm 3 bộ phận: quản lý và giám sát các hoạt động giao dịch (bao gồm cả việc phát hành), quản lý và giám sát các CTCK, giải quyết các tranh chấp và tiến hành xử lý các vi phạm. Nhìn chung các tổ chức tự quản gồm có: sở giao dịch và hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán.

2. Hoạt động của thị trường chứng khoán

2.1. Các nghiệp vụ trực tiếp của thị trường chứng khoán Nghiệp vụ phát hành chứng khoán

Là nghiệp vụ của các đơn vị phát hành chứng khoán, còn các phương thức, trình tự phát hành phải tuân thủ theo qui định của TTCK. Để được phát hành chứng khoán, đơn vị phải có đơn xin kèm theo hồ sơ phát hành gửi UBCKNN xem xét. Chỉ khi được sự chấp thuận thì đơn vị mới được phát hành chứng khoán ra thị trường. Nghiệp vụ phát hành liên quan đến việc tính toán phức tạp, nên phát hành chứng khoán nào, số lượng, thời hạn, giá cả, việc trả lãi suất, lãi tứcđòi hỏi không chỉ các chuyên gia của các công ty phát hành mà còn cần tới sự hỗ trợ của các chuyên gia từ các CTCK hoặc các trung gian tài chính khác với tư cách là tư vấn và trợ giúp phát hành.

Nghiệp vụ trợ giúp phát hành

Đây là nghiệp vụ của các CTCK và các trung gian tài chính khác. Nghiệp vụ trợ giúp phát hành bao gồm hai loại: Đại lý phát hành và tư vấn phát hành.

Đại lý phát hành: các công ty chứng khoán hoặc các trung gian tài chính khác đứng ra mua số chứng khoán của công ty phát hành và đem bán lại cho nhà đầu tư trên thị trường. Trong nghiệp vụ này, công ty trợ giúp phát hành là người gánh chịu rủi ro trong việc bán chứng khoán nhưng bù lại họ được hưởng phần chênh lệch từ giá mua và bán chứng khoán.

Tư vấn phát hành: là các công ty trợ giúp phát hành đơn thuần là tư vấn cho công ty phát hành về các vấn đề quan trọng trong hoạt động phát hành và được hưởng một khoản phí dịch vụ do công ty phát hành trả.

Nghiệp vụ môi giới chứng khoán

Đây là việc các CTCK làm trung gian giữa người mua và người bán chứng khoán. Môi giới là việc đưa người cần bán một loại chứng khoán nào đó với giá đưa ra đến với người mua loại chứng khoán đó với giá đó. Trên thị trường có rất nhiều cung và cầu về chứng khoán, nhưng để họ gặp nhau ở một mức giá, với một khối lượng cụ thể là công việc rất khó khăn đối với mỗi cá nhân cần mua và bán. Để giảm bớt chi phí này, các nhà môi giới là người nắm chắc được những ai cần mua và cần bán với số lượng và giá cả cụ thể. Từ đó, họ làm trung gian để môi giới, liên hệ cho

những người này gặp nhau và để bù đắp cho việc dàn xếp này, người môi giới chứng khoán được hưởng một khoản phí hay là hoa hồng trong môi giới giao dịch.

Nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán

Đây là nghiệp vụ của các CTCK tiến hành giao dịch mua bán chứng khoán bằng tài khoản của mình và tự gánh chịu rủi ro. Chỉ có CTCK mới được phép thực hiện nghiệp vụ này. Mục đích của nghiệp vụ này là thu lợi nhuận và làm ổn định thị trường. Tại thời điểm thị trường đang lên cơn sốt về giá chứng khoán, ngoài các biện pháp khác, thì CTCK tham gia bán chứng khoán để bình ổn giá cả, nhằm giảm sự căng thẳng của thị trường cũng như để kiếm lời. Trong những thời điểm suy giảm, giá chứng khoán giảm thì các CTCK mua vào để tăng sự sôi động của thị trường. Vì vậy, CTCK là lực lượng dự bị làm đối trọng với các áp lực thị trường.

2.2. Các nghiệp vụ liên quan

Nghiệp vụ tín thác đầu tư chứng khoán

Đây là việc các cá nhân, tổ chức cùng gom vốn và thành lập một công ty hoặc dưới dạng các quỹ và họ uỷ thác quyền sử dụng vốn cho hội đồng quản trị công ty tín thác đầu tư hoặc uỷ ban quản lý tín thác đầu tư. Số lượng vốn góp trên được đầu tư vào chứng khoán, lãi và vốn gốc sẽ được thanh toán cho các cổ đông khi kết thúc hợp đồng.

Tư vấn đầu tư

Đây là nghiệp vụ của các CTCK, các công ty tài chính khác. Hoạt động tư vấn đầu tư là việc cung cấp thông tin, cách thức, đối tượng chứng khoán, thời hạn, khu vực, các vấn đề có tính qui định của luật pháp về hoạt động chứng khoán. Các loại dịch vụ tư vấn bao gồm:

- Tư vấn đầu tư mua bán chứng khoán;

- Tư vấn quản lý doanh mục đầu tư;

- Tư vấn thông tin về hoạt động chứng khoán.

Mục đích của hoạt động tư vấn nhằm thúc đẩy các nhà đầu tư trên thị trường hiểu biết về TTCK để đầu tư và quản lý hoạt động đầu tư của mình có hiệu quả nhất.

Nghiệp vụ tín dụng chứng khoán

Đây là nghiệp vụ của các CTCK, các công ty tài chính khác nhằm cho các nhà đầu tư vay tiền để mua chứng khoán. Vì không phải nhà đầu tư nào cũng có đủ tiền mới đi mua chứng khoán hoặc lúc nào cũng đủ tiền để mua một loại chứng khoán mong muốn. Vậy nghiệp vụ này là để đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư. Điều kiện của loại tín dụng này cũng như loại tín dụng thông thường tức là phải có năng lực trả nợ, phải có tài sản để thế chấp. Ngoài ra, các chứng khoán mua được phải dùng để thế chấp cho khoản vay của khách hàng cho đến khi các chứng khoán này được bán trên thị trường.

Tại một số nước, tỷ lệ cấp tín dụng chứng khoán của các tổ chức này cho khách hàng được pháp luật giới hạn ở mức tối đa là 60% tổng giá trị chứng khoán cần mua. Mục đích của nghiệp vụ này là nhằm thu lợi dựa trên mức hoa hồng thu được, kích thích các nghiệp vụ khác hoạt động và nhằm tạo sự sôi động, sự phong phú về cầu hàng hoá chứng khoán.


3. Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán

3.1. Nguyên tắc trung gian mua bán chứng khoán

Hoạt động mua bán chứng khoán không phải trực tiếp diễn ra giữa những người muốn mua và bán chứng khoán thực hiện mà do các nhà trung gian môi giới thực hiện. Đây là nguyên tắc trung gian căn bản cho tổ chức và hoạt động của TTCK.

Nguyên tắc trung gian nhằm đảm bảo cho các loại chứng khoán là chứng khoán thực và thị trường hoạt động lành mạnh, đều đặn hợp pháp và phát triển, bảo vệ lợi ích của người đầu tư. Vì những nhà đầu tư không thể xét đoán một cách nhanh chóng và chính xác giá trị thực sự của từng loại chứng khoán và cũng không dự đoán được chính xác xu hướng biến động của nó. Vì vậy nếu người môi giới có thái độ không khách quan trong hoạt động trung gian sẽ gây thiệt hại cho các nhà đầu tư.

Xét về tính chất kinh doanh, môi giới chứng khoán có 2 loại: Môi giới chứng khoán và thương gia chứng khoán. Môi giới chứng khoán chỉ thương lượng mua bán chứng khoán theo lệnh của khách hàng và ăn hoa hồng. Thương gia chứng khoán còn gọi là người kinh doanh chứng khoán. Nói chung các công ty môi giới

chứng khoán tại các TTCK đều đồng thời thực hiện 02 nghiệp vụ là người môi giới vừa là người kinh doanh nhưng tại TTCK New York, London từ lâu người ta đã phân biệt 02 loại môi giới này và có luật lệ không chỉ hoạt động của thương gia chứng khoán.

3.2. Nguyên tắc định giá của mua bán chứng khoán

Giá chứng khoán trên TTCK do các nhà môi giới đưa ra. Mỗi nhà môi giới định giá mỗi loại chứng khoán tại từng thời điểm tuỳ theo sự xét đoán, kinh nghiệm và kỹ thuật dựa trên lượng cung cầu loại chứng khoán đó trên thị trường.

3.3. Nguyên tắc công khai của thị trường chứng khoán

Tất cả các hoạt động trên TTCK đều được công khai hoá. Thông tin về các loại chứng khoán được đưa ra mua bán trên thị trường, tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của các công ty phát hành, số lượng chứng khoán và giá cả của từng loại chứng khoán đều được thông báo công khai trên thị trường. Khi kết thúc một cuộc giao dịch, số lượng mua bán và giá cả thống nhất lập tức được thông báo ngay. Nguyên tắc công khai của TTCK nhằm đảm bảo quyền lợi cho người mua bán chứng khoán không bị "hớ" trong mua bán chứng khoán.

Tất cả các nguyên tắc trên đều được thể hiện bằng văn bản pháp quy từ luật đến qui chế, điều lệ của mỗi TTCK nhằm bảo vệ quyền lợi của người mua chứng khoán và của các thành viên trên TTCK.

4. Giao dịch trên thị trường chứng khoán

Các chứng khoán được giao dịch trên thị trường theo lô chẵn hoặc lô lẻ. Trên sàn giao dịch, có nhiều loại lệnh khác nhau được nhà đầu tư sử dụng tùy theo mục đích của từng người. Để mua hay bán chứng khoán, các nhà đầu tư sẽ đưa ra các lệnh thuê các công ty môi giới chứng khoán thực hiện hộ.

Lệnh thị trường: Đây là loại lệnh thông dụng nhất. Các công ty môi giới căn cứ vào giá thị trường hiện tại của loại chứng khoán mà nhà đầu tư yêu cầu thực hiện để tiến hành giao dịch, xong họ cũng phải xem xét để mua hoặc bán sao cho có lợi nhất cho khách hàng của họ, các khách hàng biết chắc lệnh sẽ được thực hiện nhưng không biết chắc giá cả là bao nhiêu.

Lệnh giới hạn: Lệnh này thường được đưa ra bởi các nhà đầu tư có hiểu biết chút ít về TTCK và kinh tế. Trong lệnh có giới hạn về giá bán thấp nhất và giá mua cao nhất mà công ty môi giới trên sàn giao dịch được phép thực hiện. Đối với lệnh mua thì giá mua thường thấp hơn giá thị trường hiện tại còn lệnh bán có giá thường cao hơn giá thị trường. Do vậy lệnh giới hạn thường không được thực hiện ngay mà được thực hiện trong một thời gian nhất định cho đến khi hết thời hạn và huỷ bỏ. Trong khi chưa bị huỷ bỏ mà lệnh chưa được thực hiện thì nhà đầu tư vẫn có thể tăng giảm giá giới hạn (giá mua, giá bán).

Lệnh dừng: Đây là lệnh đặc biệt mà các nhà đầu tư dùng để bảo vệ thu nhập của họ tránh thua lỗ khi có sự tăng giảm giá cả. Lệnh ngừng bán có giá đặt ra cao hơn giá thị trường hiện tại còn lệnh ngừng mua có giá đặt ra thấp hơn thị trường hiện tại.

Các lệnh trên khi đấu giá sẽ được ưu tiên theo thứ tự:

- Ưu tiên về giá: Giá đặt mua cao nhất và giá đặt bán thấp nhất được ưu tiên.

- Ưu tiên về thời gian: Trong cùng một mức giá lệnh nào được đưa ra trước sẽ được ưu tiên.

- Ưu tiên về số lượng: Khi có nhiều lệnh cùng thoả mãn hai điều kiện trên, lệnh nào có số lượng chứng khoán nhiều hơn sẽ được ưu tiên.

Trên TTCK phi tập trung, hoạt động mua bán chứng khoán cũng diễn ra khá đơn giản. Khi một khách hàng muốn mua một số lượng chứng khoán nhất định, anh ta sẽ đưa lệnh cho CTCK đang quản lý tài sản của anh ta yêu cầu giao dịch hộ. Thông qua hệ thống viễn thông công ty môi giới sẽ liên lạc với tất cả các nhà tạo thị trường của loại chứng khoán này để biết được giá chào bán thấp nhất của loại chứng khoán này sau đó công ty này thông báo lại cho khách hàng biết và nếu khách hàng chấp nhận, công ty sẽ thực hiện lệnh và giao dịch của khách hàng được thực hiện.‌

III. CHỨC NĂNG VÀ VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

1. Chức năng của thị trường chứng khoán

1.1. Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế

Ta biết muốn đầu tư phát triển thì phải tự tích luỹ hoặc huy động từ bên ngoài. Vốn huy động từ bên ngoài bao gồm vốn vay tín dụng của các tổ chức tài chính và phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Ưu điểm của phát hành trái phiếu, cổ phiếu

đối với dân chúng là họ dễ dàng đầu tư vào bất cứ Doanh nghiệp nào họ muốn hoặc mua bán kiếm lợi. Còn đối với các Doanh nghiệp là họ không phải trả lãi suất hàng tháng và không phải trả nợ gốc khi bị thua lỗ. Do tính chất của chu kỳ kinh doanh nên vốn tạm thời nhàn rỗi trong các Doanh nghiệp là rất lớn, bên cạnh, còn có một lượng vốn lớn nằm rải rác trong dân chưa được huy động. Tất cả những tiềm năng này sẽ được phát huy hiệu quả nếu có TTCK. Vì TTCK với cơ sở pháp lý hoàn chỉnh và bộ máy quản lý hữu hiệu, với sự phổ biến và hướng dẫn rộng rãi, người dân sẽ dễ dàng sử dụng nguồn tiết kiệm của họ hơn. Đây là tác nhân kích thích ý thức tiết kiệm và tạo thói quen đầu tư trong công chúng.

Ngoài ra, trong xã hội còn có các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi như: quỹ bảo hiểm, quỹ phúc lợi tập thểmột phần vốn của quỹ này được gửi vào Ngân hàng để thực hiện vệc thanh toán, phần còn lại, những người quản lý quỹ luôn tự hỏi làm thế nào cho vốn của họ có khả năng sinh lãi nhiều nhất và vừa an toàn vừa có tính tạm thờivà TTCK có khả năng đáp ứng yêu cầu này.

Tóm lại, TTCK có chức năng thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, mở rộng quy mô Doanh nghiệp góp phần giải quyết việc làm, giảm thất nghiệp.


1.2. Điều tiết các nguồn vốn

Phải thừa nhận rằng, một Doanh nghiệp không phải lúc nào cũng thiếu hoặc thừa vốn. Thừa hay thiếu là phụ thuộc vào tính chất của chu kỳ kinh doanh. Khi cần đầu tư mua nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, các khoản phải thu lớn, thì đây là lúc mà Doanh nghiệp đang thiếu vốn. Khi quá trình sản xuất kết thúc, sản phẩm được bán ra và thu vốn về, các khoản phải thu được thu về, lúc này Doanh nghiệp lại tạm thời thừa vốn. Trên thị trường vốn, luôn luôn có sự điều tiết vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu. Ở đây TTCK đóng vai trò rất quan trọng.

1.3. Chức năng tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán

Nhà đầu tư có thể chuyển đổi chứng khoán của họ thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán mà họ mong muốn khác tại thị trường. Chính tính thanh khoản của chứng khoán giúp cho thị trường sôi động, đồng thời cũng là một trong những

Xem tất cả 125 trang.

Ngày đăng: 12/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí