Vai Trò Của Các Ngân Hàng Thương Mại

ảnh hưởng đối với nguồn cung của thị trường. Vì không chỉ các công ty phải lên kế hoạch một cách thận trọng và có bước đi cụ thể, bản thân HoSE cũng sẽ kiểm soát chặt vấn đề này.

- Ngược lại, hiện tại sàn HaSTC có hơn 30 công ty niêm yết có vốn từ 80 tỉ đồng trở lên, trong đó những công ty làm ăn có lãi hai năm liên tục đáp ứng điều kiện để có thể chuyển vào HoSE. Trong trường hợp những công ty nằm trong danh sách này thấy có điều kiện và cơ hội chuyển vào sàn HoSE sớm hơn, họ cũng có thể đưa ra lấy ý kiến cổ đông trong kỳ đại hội cổ đông sắp tới.

- Đối với Doanh nghiệp niêm yết tại HaSTC, nếu không đủ điều kiện (vốn điều lệ dưới 10 tỷ đồng) sẽ phải chuyển sang niêm yết tại thị trường giao dịch chứng khoán của Công ty đại chúng chưa niêm yết (UPCoM).

Lãnh đạo UBCKNN cho biết: Khi thị trường được tái cấu trúc, sẽ có những sàng lọc về tiêu chí và quy mô niêm yết tại hai sàn. Sau khi tái cấu trúc, sàn HoSE sẽ là thị trường hàng hoá chất lượng hơn; ngược lại, sàn HaSTC sẽ nhiều khả năng là sân chơi cho giới đầu cơ do tiềm ẩn nhiều rủi ro. Tăng vốn để trụ lại HoSE hay chấp nhận chuyển sàn HaSTC sẽ tuỳ vào quyết định của mỗi Doanh nghiệp.

Tái cấu trúc TTCK Việt Nam khi loại khỏi cuộc chơi những Doanh nghiệp thiếu năng lực, nhằm ổn định thị trường này trong tương lai là một việc làm cần thiết, vì thế các thành viên tham gia thị trường cần nghiêm chỉnh chấp hành quyết định này, đồng thời hỗ trợ UBCKNN để việc chuyển sàn thành công, tránh gây xáo trộn thị trường, tạo ra một TTCK với diện mạo mới, chuyên nghiệp hơn, đồng bộ hơn và đẳng cấp hơn với mục tiêu dài hạn là xây dựng một TTCK Việt Nam phát triển quy mô và bền vững.

2. Nhóm giải pháp vi mô

2.1. Đối với các công ty niêm yết

Ở đây chỉ bàn đến một số giải pháp đối với các công ty, Doanh nghiệp niêm yết với tư cách là một thành viên tham gia vào TTCK, vấn đề giải pháp cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của Doanh nghiệp hay vấn đề huy động vốn trong thời gian tới sẽ không đề cập đến. Đây là những giải pháp trong dài hạn, vì vậy cần các Doanh nghiệp thực hiện một cách nghiêm chỉnh và cần có sự phối hợp đồng bộ của các Bộ ngành liên quan.

- Công khai minh bạch hóa thông tin trước nay vẫn là điểm yếu lớn nhất đối với các công ty niêm yết hiện nay. Do đó việc công bố thông tin của các Công ty niêm yết trên TTCK phải do Tổng Giám đốc hoặc Giám đốc hoặc người được ủy quyền công bố thông tin của Doanh nghiệp thực hiện. Đồng thời Tổng Giám đốc hoặc Giám đốc Công ty phải chịu trách nhiệm về nội dung do người được ủy quyền công bố thông tin công bố ra thị trường. Trường hợp có bất kỳ người nào công bố thông tin làm ảnh hưởng đến giá chứng khoán của một Công ty, thì người được ủy quyền công bố thông tin của Công ty đó phải có trách nhiệm xác nhận hoặc đính chính thông tin ấy trong thời gian quy định, không được chậm trễ.

- Khi tiến hành hoạt động đầu tư trên thị trường, các nhà đầu tư thường dựa trên cơ sở là tình hình tài chính của Doanh nghiệp để đưa ra các quyết định đầu tư tài chính. Do đó, đối với các Báo cáo tài chính năm được kiểm toán, các Công ty đại chúng phải chịu trách nhiệm công bố thông tin định kỳ về Báo cáo tài chính năm. Nội dung công bố thông tin bao gồm: Bảng cân đối kế toán; Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh; Báo cáo lưu chuyển tiền tệ; Bản thuyết minh báo cáo tài chính theo quy định của pháp luật về hạch toán kế toán.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.

- Ngoài ra, Công ty đại chúng phải công bố thông tin bất thường khi xảy ra một trong các sự kiện: Tài khoản của Công ty tại Ngân hàng bị phong tỏa hoặc tài khoản được phép hoạt động trở lại sau khi bị phong tỏa; tạm ngừng kinh doanh; bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép thành lập và hoạt động hoặc giấy phép hoạt động; quyết định của Hội đồng quản trị về việc mua lại cổ phiếu của công ty mình hoặc bán lại số cổ phiếu đã mua; quyết định khởi tố đối với thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Phó Tổng giám đốc, Kế toán trưởng của Công ty... Các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm quy định của pháp luật về công bố thông tin thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

- Tiếp nữa, xét một cách khách quan thì hệ thống khai báo thuế và chính sách thu thuế của ta còn rất nhiều bất cập. Việc các cơ quan thuế thường bị "giao" chỉ tiêu thu thuế cao là áp lực chính đẩy nhiều chuyên viên phụ trách thuế ép thuế Doanh nghiệp, bóc tách các chi phí hợp lý hợp lệ để "tận thu". Điều này, về mặt chính sách thu thuế là không sai, nhưng về khía cạnh thực tế khiến Doanh nghiệp

Phân tích thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2008 - diễn biến thị trường và nguyên nhân của sự sụt giảm. Dự báo xu hướng trong năm 2009 - 13

luôn trong tình trạng khai thấp doanh thu, tăng chi phí... để hòng giảm lợi nhuận, từ đó giảm khoản thuế thu nhập Doanh nghiệp phải nộp cho ngân sách Nhà nước. Từ đó nảy sinh chuyện thường gặp là cảnh "thỏa hiệp giữa nhân viên tính thuế và lãnh đạo Doanh nghiệp" mỗi dịp vào "mùa" tính thuế. Đây vừa là kẽ hở về quản lý của Nhà nước, vừa làm môi trường kinh doanh không minh bạch, hình ảnh tài chính Doanh nghiệp bị bóp méo, vì thế cổ đông không nhận được thông tin đầy đủ về giá trị và khả năng tạo lợi nhuận của Doanh nghiệp, hay nhận định sai về tình hình tài chính của Doanh nghiệp từ đó đưa ra các quyết định sai lầmGiải pháp để đối phó với tình trạng này là Chính phủ có thể ra những điều luật quy định thật chặt chẽ để việc kiểm tra kế toán ở các công ty chặt chẽ hơn, hạn chế tối đa các kẽ hở về luật để các Doanh nghiệp và cơ quan thuế không thể bắt tay nhằm chiếm đoạt Ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, việc này không phải là dễ, nó tùy thuộc rất lớn vào đạo đức nghề nghiệp của Cơ quan Thuế cũng như đạo đức kinh doanh của Doanh nghiệp.

Cuối cùng, điều muốn nói là khi tham gia vào TTCK, về phía các Doanh nghiệp niêm yết cần thực hiện tốt vai trò của mình, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh; triển khai hoạt động huy động vốn, tăng vốn một cách có hiệu quả, nhất là trong thời kỳ khó khăn trước mắt; công khai minh bạch các thông tin về tình hình kinh doanh của Doanh nghiệp nhằm tạo cái nhìn đúng đắn từ thị trường và các nhà đầu tư đối với bản thân Doanh nghiệp, từ đó góp phần thúc đẩy thị trường phát triển.

2.2. Đối với các công ty chứng khoán

Sau 8 năm TTCK Việt Nam phát triển, số lượng các CTCK ra đời ngày càng lớn. Không thể phủ nhận các CTCK đóng vai trò hết sức quan trọng: là cầu nối giữa nhà đầu tư và TTCK, nhưng bên cạnh những mặt tích cực thì tại các CTCK vẫn còn tồn tại những nguy cơ tiềm ẩn gây tổn hại đến nhà đầu tư nói riêng và TTCK nói chung, như sử dụng trái phép tài sản của nhà đầu tư (sử dụng số tiền kết dư và tiền mua chứng khoán mà không có sự đồng ý của chủ tài khoản), xâm hại đến quyền lợi hợp pháp của những nhà đầu tư; Cung cấp các bản sao kê chưa chuẩn xác, sử dụng các nguồn chi trả ngoài bản cân đối tài khoản; Bộ máy điều hành của CTCK chưa kiện toàn; áp dụng các hình thức kinh doanh cứng nhắc dẫn đến khả năng tăng trưởng lợi nhuận của công ty bị bó hẹp...

Biện pháp có thể áp dụng là số tiền kết dư của nhà đầu tư bắt buộc phải được chuyển sang Ngân hàng chỉ định và được quản lý độc lập dưới tên của chủ tài khoản là nhà đầu tư, đồng thời tiền kết dư hay tiền do nhà đầu tư ủy thác phải được quản lý bởi 3 bên độc lập là CCTK, Ngân hàng và Hội đồng ủy thác tài sản. Ngoài ra tiền kết dư từ việc cho vay cầm cố chứng khoán phải tuân theo đúng nguyên tắc 3 bên giữa Nhà đầu tư - Công ty chứng khoán - Ngân hàng. Từ đó mới có thể đảm bảo quyền lợi và gây dựng được niềm tin nơi nhà đầu tư.

Trong thời gian tới, các CCTK nên nghiên cứu đưa ra các hình dịch vụ mới, phục vụ nhà đầu tư tốt hơn. Bên cạnh đó, các CTCK cũng cần chú tâm đầu tư vào những nghiệp vụ có thế mạnh, không nên đầu tư dàn trải bởi sẽ rất lãng phí nguồn vốn vốn đã rất eo hẹp, tránh tình trạng như hiện nay CTCK đang đua nhau nộp đơn lên UBCKNN xin rút bớt nghiệp vụ tự doanh, đặc biệt chú trọng đến các nghiệp vụ truyền thống thu hút được đông đảo nhà đầu tư bởi TTCK Việt Nam hiện nay vẫn còn đang trong thời kỳ non trẻ, trình độ nhận thức của nhà đầu tư chưa sâu.

Cả nước hiện có trên 100 CTCK hoạt động do cạnh tranh khốc liệt nên sẽ có nhiều công ty thua lỗ. Những CTCK mạnh về vốn, công nghệ, nhân lực, uy tín hiện nay ngày càng mở rộng hoạt động, chiếm lĩnh phần lớn mảng dịch vụ. Trong khi đó, mảng tự doanh chứng khoán không đem lại lợi nhận cao như trước đây, vì thế những CTCK mới thành lập khó có thể tồn tại. TTCK vẫn trong xu hướng giảm, ảnh hưởng nặng nề đến hoạt động của các công ty kinh doanh dịch vụ liên quan. Trước tình hình khó khăn hiện nay, nhiều CTCK đã phải cắt giảm nhân sự, đóng cửa đại lý nhận lệnhđể từng bước tiết giảm tối đa chi phí đầu vào. Thế nhưng, theo đánh giá của một nhà phân tích thị trường, hiện nay ít nhất mỗi tháng CTCK lỗ khoảng 200 triệu đồng. Với khoản lỗ này, nếu CTCK có vốn điều lệ lớn vẫn đủ khả năng duy trì, chờ cơ hội thị trường lên điểm, khôi phục lại hoạt động. Nhưng với CTCK vốn điều lệ dưới 50 tỷ đồng đang thực sự gặp nhiều khó khăn. Theo tính toán, với tổng vốn dưới 50 tỷ đồng, trước khi đi vào hoạt động, CTCK phải đầu tư vào cơ sở hạ tầng, chi phí mặt bằng, công nghệ thông tinít nhất cũng trên dưới 10 tỷ đồng. Thêm vào đó, các khoản tự doanh của CTCK lỗ nhiều hơn lãi nên khó khăn càng chồng chất nếu TTCK tiếp tục giảm. Trong thời kỳ khó khăn như hiện nay, các CTCK buộc phải tìm ra những hướng đi riêng để đảm bảo tồn tại và phát

triển, một trong số đó là xu hướng mua lại và sáp nhập - Mergers and Acquisitions (M&A).

Hoạt động M&A trên thị trường chứng khoán

Từ năm 2005 đến nay, các vụ M&A trong lĩnh vực chứng khoán tại Việt Nam có xu hướng tăng lên cả về số lượng và giá trị giao dịch, với sự tham gia ngày càng nhiều từ các tổ chức nước ngoài.

Nối tiếp sự kiện Công ty Cổ phần Chứng khoán Hướng Việt chuyển nhượng

14.500.000 cổ phần, có giá trị 145.000.000.000 đồng theo mệnh giá (tương đương 48,33% vốn điều lệ) cho Morgan Stanley (Singapore) và đổi tên thành Công ty Cổ phần Chứng khoán Morgan Stanley Hướng Việt (Morgan Stanley Gateway Securities JSC). Golden Bridge cũng đã mua 49% của CTCK Nhấp và Gọi. CTCK Âu Lạc bán 49% cổ phần cho công ty Technology CX (quần đảo Cayman). Ngân hàng đầu tư RHB (Malaysia) mua 49% cổ phần của CTCK Việt Nam với giá trị giao dịch khoảng 68 tỷ đồng. Và gần đây nhất, CTCK Seamico của Thái Lan mua 49% cổ phần của CTCK Thành Công.

Đặc điểm chung của các thương vụ này là các tổ chức tài chính lớn của nước ngoài, đều mua tới 49% cổ phần của các CTCK (giới hạn được phép sở hữu theo đúng quy định 238/2005/QĐ-TTg). Các CTCK bán 49% cổ phần đều là các CTCK có quy mô vừa và nhỏ, thị phần còn khiêm tốn cả về hoạt động môi giới và tư vấn tài chính doanh nghiệp.

Tính tất yếu của xu hướng M&A của các CTCK Việt Nam

Có một số lý do để thấy rằng, xu hướng M&A các CTCK tại Việt Nam là tất

yếu.

Thứ nhất, thị trường tài chính Việt Nam nói chung và TTCK nói riêng trở

nên minh bạch hơn, thu hút nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước. Lãi suất của các đồng tiền chủ chốt trên thế giới thấp, góp phần đẩy các tổ chức, cá nhân rót tiền thêm vào các công ty để nắm giữ cổ phần, cổ phiếu thay vì gửi tiền vào ngân hàng lấy lãi. Dòng vốn ngày càng tăng của các quỹ đầu tư tư nhân, cũng như các công ty đang niêm yết trên các sàn chứng khoán thế giới thúc đẩy hoạt động M&A một cách đáng kể, trong đó có hoạt động M&A đối với các CTCK.

Thứ hai, trong thời điểm khó khăn trên TTCK như hiện nay, các CTCK có quy mô nhỏ, hạ tầng đầu tư thiếu đồng bộ, trình độ nhân lực yếu hoặc mới thành lập chắc chắn sẽ phải nghĩ đến chuyện sáp nhập hoặc bán lại nếu không sẽ đứng trước nguy cơ phải phá sản. Các CTCK mạnh về vốn, công nghệ, nhân lực, uy tín đang ngày càng mở rộng hoạt động, chiếm lĩnh phần lớn mảng dịch vụ.

Thứ ba, M&A các CTCK giúp tận dụng tối đa sức mạnh về tài chính, kinh nghiệm cũng như các thế mạnh về công nghệ thông tin của các đối tác, đặc biệt là đối tác nước ngoài. Hoạt động M&A ở đây được xem như một công cụ chiến lược để phát triển hay tái cơ cấu lại CTCK, do sau khi sáp nhập và mua lại thì lợi ích của các bên tham gia thu được là rất lớn. Đó là sự tăng cường hiệu quả kinh tế nhờ quy mô khi tăng thị phần, giảm chi phí cố định, chi phí nhân lực... Các CTCK hợp nhất còn bổ sung cho nhau những thế mạnh của mình như thương hiệu, cơ sở khách hàng

- những yếu tố rất quan trọng trong kinh doanh chứng khoán. Ngoài ra, với những công ty nước ngoài muốn tham gia vào TTCK Việt Nam, việc sáp nhập với một công ty trong nước giúp làm giảm chi phí và thời gian gia nhập thị trường, giảm chi phí và rủi ro trong quá trình xây dựng cơ sở vật chất, khách hàng ban đầu.

Thứ tư, đối với các tổ chức, cá nhân nước ngoài, M&A là con đường ngắn nhất, hiệu quả nhất để thâm nhập thị trường dịch vụ chứng khoán Việt Nam. Sau khi gia nhập WTO, hiện tại Việt Nam mới cho phép thành lập công ty 100% vốn nước ngoài và chi nhánh để cung cấp dịch vụ chứng khoán đối với một số loại hình dịch vụ như quản lý tài sản, thanh toán, tư vấn liên quan đến chứng khoán, trao đổi thông tin tài chính. Do đó, M&A các CTCK là cơ hội để các nhà đầu tư nước ngoài bước đầu xâm nhập thị trường. Ngoài ra, hiện nay cùng với sự tụt giảm của TTCK, mức giá đã trở nên hợp lý hơn cho các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài muốn thực hiện việc mua lại.

Sáp nhập và mua lại các CTCK là xu hướng tất yếu, nhưng hoạt động này vẫn còn thiếu hành lang pháp lý rõ ràng. Hiện nay, các quy định liên quan đến hoạt động M&A ở Việt Nam được quy định trong nhiều văn bản khác nhau như Bộ luật Dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Cạnh tranh... Tuy nhiên các quy định này hầu như mới chỉ dừng lại ở việc xác lập về mặt hình thức của hoạt động M&A, tức là mới chỉ giải quyết được các vấn đề về mặt “thay tên, đổi họ” cho Doanh nghiệp. Trong khi đó, M&A là một giao dịch thương mại, tài chính. Giao

dịch này đòi hỏi phải có quy định cụ thể, có một cơ chế thị trường để chào bán, chào mua Doanh nghiệp, giá cả, cung cấp thông tin, chuyển giao và xác lập sở hữu, chuyển dịch tư cách pháp nhân, các nghĩa vụ tài chính, thương hiệu... Đồng thời, còn hàng loạt vấn đề liên quan trực tiếp đến M&A mà pháp luật Việt Nam còn chưa có quy định cụ thể như kiểm toán, định giá, tư vấn, môi giới, bảo mật, thông tin, cơ chế giải quyết tranh chấp...

Riêng giao dịch M&A của các CTCK có những nét đặc thù có thể cần có những hướng dẫn riêng. Đồng thời cũng cần có biện pháp tránh nguy cơ nhiều CTCK Việt Nam bị thâu tóm bởi một ít số tổ chức, cá nhân nước ngoài. Một nghị định về mua bán, sáp nhập Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài đang được Bộ Kế hoạch và Đầu tư xúc tiến soạn thảo. Một khi ra đời, nghị định này sẽ tạo điều kiện để Doanh nghiệp nước ngoài mua lại Doanh nghiệp trong nước, cũng như các Doanh nghiệp trong nước mua lại cổ phần của Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nghị định sẽ thống nhất một số quy định về tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài đang được quy định khác nhau tại Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán cũng như hướng dẫn cụ thể về thủ tục thực hiện M&A.

Vai trò của M&A như một kênh quan trọng để hút vốn và nâng cao chất lượng đầu tư nước ngoài, từ đó chỉ ra sự cần thiết phải xây dựng hành lang pháp lý làm cơ sở cho việc thực hiện các giao dịch M&A. Năm 2009, trong bối cảnh tình hình khó khăn của thị trường 2 ngành ngân hàng và chứng khoán là thấy rõ, thì để đạt được mục tiêu quan trọng sống còn, các Doanh nghiệp sẽ phải tìm cách sáp nhập với các đối thủ cạnh tranh có quy mô tương tự hay với các Doanh nghiệp có thể bổ sung cho chính Doanh nghiệp của mình.

2.3. Vai trò của các ngân hàng thương mại

Vai trò của NHTM trên TTCK có thể kể đến các khía cạnh sau: về hàng hoá, về tổ chức trung gian, về thông tin, về sự điều tiết cung cầu và về các định chế tài chính trên thị trường. Đó là những yếu tố quan trọng nhất tạo nên sự phát triển của một thị trường nói chung và TTCK nói riêng.

- NHTM có vai trò rất to lớn trong việc tạo ra hàng hoá cho TTCK. Họ có thể tham gia hoạt động với tư cách là người phát hành và bán cổ phiếu của mình (ngân hàng cổ phần). Ngoài ra, tất cả các NHTM không phân biệt thành phần sở

hữu đều có thể phát hành trái phiếu để huy động vốn từ nền kinh tế. Bên cạnh đó, Ngân hàng với tư cách là một tổ chức trung gian, thực hiện các nghiệp vụ trung gian chứng khoán như bảo lãnh phát hành, tư vân đầu tư chứng khoán... đã góp phần không nhỏ giúp các Doanh nghiệp khác phát hành chứng khoán, gián tiếp tạo sự đa dạng về hàng hoá cho TTCK.

- NHTM còn đóng vai trò điều chỉnh cung - cầu trên TTCK. Xét cho cùng, mục đích của bất kỳ nhà đầu tư nào dưới bất kỳ hình thức nào cũng xuất phát từ mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận. Việc họ quyết định đầu tư vào lĩnh vực nào là tuỳ thuộc vào những nhận định và dự đoán của họ về khả năng sinh lời, đem lại thu nhập, và mức độ rủi ro của nó. Chính vì vậy mà lãi suất tiền gửi và cho vay của các ngân hàng cũng có tác động không nhỏ đến mức cung cầu chứng khoán trên thị trường và giá của những chứng khoán đó.

- NHTM có một ý nghĩa rất lớn trong việc cung cấp một kênh thông tin rất phong phú và tương đối đáng tin cậy cho thị trường. Hoạt động môi giới đầu tư chứng khoán của các NHTM luôn chứa đựng cả hàm lượng tư vấn đầu tư cao, người môi giới chứng khoán cho biết khi nào nên mua, khi nào nên bán chứng khoán và cung cấp thông tin về tình hình diễn biến trên thị trường. Bên cạnh đó, các NHTM cũng cung cấp các thông tin rất đáng tin cậy về tình hình diễn biến thị trường giúp các cơ quan quản lý thị trường có những điều chỉnh phù hợp nhất.

Trước tình hình suy thoái kinh tế chung trên thế giới và trong nước, các NHTM với tư cách là một đơn vị kinh doanh cũng không thể thoát khỏi khó khăn. Như chúng ta đã thấy, việc các NHTM thực hiện chỉ thị 03 của NHNN về cho vay chứng khoán theo đó phải đưa con số dư nợ cho vay chứng khoán về dưới 3%/tổng dư nợ cộng với cú sốc cung từ việc các NHTM giải chấp các khoản cho vay cầm cố chứng khoán vào đầu năm 2008 là một trong những nguyên nhân đẩy TTCK đi xuống. Thêm vào đó, hoạt động kinh doanh của các NHTM cũng không có hiệu quả khi lãi suất huy động và lãi suất cho vay bị đẩy lên quá cao.

Trong năm 2009, khi mà tình hình kinh tế vĩ mô đã được kiểm soát, chính sách tiền tệ đã bắt đầu phát huy tác dụng của nó, lãi suất ngân hàng được kiểm soát ở mặt bằng chung, thêm vào đó là việc Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 131/2009/QĐ-TTg thông qua chính sách hỗ trợ lãi suất cho các Doanh nghiệp trong việc vay vốn để sản xuất kinh doanh (ngày 23/01/2009) nằm trong gói kích cầu

Xem tất cả 125 trang.

Ngày đăng: 12/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí