17.000 tỷ đồng của Chính phủ thì các NHTM sẽ trở về với vai trò là một trong số các kênh huy động vốn tích cực cho các Doanh nghiệp để đưa vào phát triển sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, bản thân các NHTM cũng sẽ có cơ hội lớn hơn để tham gia vào TTCK với tư cách là một tổ chức đầu tư trên thị trường. Các NHTM với ưu thế về mạng lưới, công nghệ, khả năng phát triển thị trường OTC, xu thế hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng - đầu tư, chuyên nghiệp về các nghiệp vụ chứng khoán…sẽ góp phần rất lớn thúc đẩy thị trường đi lên với những tín hiệu khả quan hơn.
2.4. Đối với nhà đầu tư
Nhà đầu tư cần biết rõ mình đang mua cái gì và mua vì mục đích gì. Các Doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng quản trị và hạn chế trào lưu gom tiền bằng cách phát hành thêm cổ phiếu. Cơ quan quản lý cần hiện đại hoá hệ thống giao dịch trên TTCK, để có thể đáp ứng được tất cả nhu cầu mua - bán của nhà đầu tư (hiện nay có tình trạng nhiều CTCK chỉ nhận lệnh trong lần khớp lệnh thứ nhất, lần hai và lần ba không nhận lệnh, vì không xử lý kịp); nên thay biên độ giá hiện tại bằng mức lớn hơn (35% chẳng hạn và dùng cơ chế cầu chì ngắt giao dịch) để buộc nhà đầu tư phải cẩn trọng khi giao dịch; nên xây dựng hệ thống nhà tạo lập thị trường để hạn chế tình trạng giao dịch một chiều.
Nhà đầu tư, ngoài việc nhận được các báo cáo thường kỳ của Doanh nghiệp nên được cung cấp các Báo cáo tài chính được kiểm toán bởi các Công ty kiểm toán độc lập. Trong đó, ngoài các thông số tài chính thông thường như đã nêu trên, còn được các kiểm toán viên đi sâu vào các chi tiết các khoản mục lớn về tài sản, các khoản phải thu, phải trả, danh sách các tài sản cố định lớn, giấy tờ pháp lý của các tài sản đó, tình hình biến động của tài sản, nguồn vốn chủ sở hữu trong năm tài chính, các khoản lợi nhuận và tỷ lệ phân bổ vào các quý, cơ cấu nhân sự Hội đồng quản trị và tỷ lệ vốn góp… Tóm lại, có rất nhiều chi tiết về tình hình tài chính Doanh nghiệp cần được diễn giải một cách hệ thống, trong sáng và minh bạch theo các chuẩn mực kế toán được công nhận theo hệ thống chuẩn quốc gia và quốc tế. Từ đó mà các nhà đầu tư sẽ thu được cái nhìn khách quan hơn và đúng đắn hơn với tình hình tài chính của mỗi Doanh nghiệp qua đó đưa ra được các quyết định chính xác hơn, giảm thiểu được rủi ro. Vấn đề còn lại ở đây là: cổ đông có được tiếp cận
dễ dàng với các tài liệu tài chính của Doanh nghiệp và Doanh nghiệp có sẵn sàng chịu chi phí để thuê kiểm toán độc lập bên ngoài hay không? Đó lại là một vấn đề nan giải nữa cho các nhà ra quyết sách.
Cuối cùng đối với nhà đầu tư, trước khi tham gia vào thị trường thì cần tìm hiểu kỹ các thông tin về Doanh nghiệp, tìm hiểu các văn bản luật cũng như các chính sách của Chính phủ quy định đối với hoạt động đầu tư, nắm bắt và theo sát tình hình thị trường, cần có cái nhìn khái quát về thị trường, không nên quá tin tưởng vào dự báo của các chuyên gia, các tổ chức, cân nhắc cẩn trọng khi đưa ra các quyết định sử dụng đồng vốn của mình.
3. Kiến nghị
3.1. Đối với Nhà nước và Chính phủ
- Nhà nước cần có các biện pháp hỗ trợ các Doanh nghiệp, đặc biệt là các Doanh nghiệp xuất khẩu. NHNN nên có chính sách tín dụng linh hoạt hơn như giảm lãi suất ngân hàng nhằm giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể vay để đầu tư cho hoạt động sản xuất phục vụ thị trường trong nước thay thế hàng ngoại nhập. Không nên vì khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế trên thế giới mà thắt chặt quá tín dụng gây ra hàng loạt vụ phá sản của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngoài ra, Việt Nam cũng nên rút kinh nghiệm của nước Mỹ và châu Âu, cần giữ nguyên trạng hệ thống sản xuất để khi kinh tế phát triển trở lại, đã có sẵn bộ máy để bắt tay ngay vào sản xuất phục vụ người tiêu dùng. Cố gắng tránh hàng loạt các vụ phá sản của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ vì các rào cản tín dụng. Khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế Mỹ này cũng là một bài học cho các Tổng công ty, doanh nghiệp Nhà nước đã bỏ các ngành nghề truyền thống để quay sang đầu tư hay đầu cơ vào các lĩnh vực chứng khoán và bất động sản để kiếm lời nhanh hơn, nhưng với cuộc khủng hoảng tài chính và chứng khoán này họ buộc phải quay lại với ngành nghề truyền thống của mình. Chính phủ cũng cần phải có chính sách phát triển toàn diện đồng đều quanh 2 trục Doanh nghiệp chính của nền kinh tế là Doanh nghiệp vừa và nhỏ và các Doanh nghiệp Nhà nước.
- Việc duy trì lãi suất cơ bản như hiện nay nhằm tiếp tục chính sách kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, trong thời gian tới cơ hội đầu tư được mở rộng đối với các Doanh nghiệp Việt Nam nên các Doanh nghiệp có thể tìm được những dự án có khả
Có thể bạn quan tâm!
- Luồng Vốn Nước Ngoài Chuyển Vào Ttck Việt Nam Bị Hạn Chế
- Dự Báo Thị Trường Chứng Khoán Việt Nam Năm 2009
- Vai Trò Của Các Ngân Hàng Thương Mại
- Phân tích thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2008 - diễn biến thị trường và nguyên nhân của sự sụt giảm. Dự báo xu hướng trong năm 2009 - 15
Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.
năng thu lời cao trong tương lai được mở ra. Doanh nhân nào có khả năng tìm thấy những cơ hội này thì hoàn toàn có thể có quyền tiếp cận vốn đầu tư. Việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ giúp các NHTM kinh doanh hiệu quả có thể mở rộng qui mô của mình để chiếm lĩnh thị trường. Trong trung hạn, sau khi lạm phát đã được kiềm chế, chính sách tỷ giá có thể chuyển sang chế độ tỷ giá linh hoạt có kiểm soát. Việc duy trì tỷ giá ổn định như hiện nay góp phần quan trọng vào việc kiềm chế lạm phát. Với việc duy trì VND có giá trị cao có thể dẫn đến việc nhập siêu. Tuy nhiên, với nguồn cung ngoại tệ vẫn ổn định và với chính sách thuế quan hạn chế tiêu dùng các loại hàng xa xỉ phẩm, đây không phải là điều đáng lo ngại trước mắt. Việc nhập khẩu máy móc thiết bị cũng như nguyên vật liệu để phục vụ sản xuất có vai trò quan trọng hơn vì nó giúp cho nền kinh tế có khả năng kiểm soát được lạm phát nhờ tăng năng suất lao động. Đây là thời điểm các Doanh nghiệp có thể tiếp cận với các điều kiện ưu đãi các loại máy móc thiết bị hiện đại của nước ngoài do tình trạng đình đốn sản xuất của các nước này. Về trung và dài hạn, chính sách này sẽ hạn chế được nhập siêu nhờ việc tăng năng lực sản xuất hàng xuất khẩu của các Doanh nghiệp trong nước. Sau khi lạm phát được khống chế, việc chuyển sang chế độ tỷ giá linh hoạt có kiểm soát sẽ khuyến khích các Doanh nghiệp thích nghi tốt hơn với sự thay đổi của nền kinh tế thế giới.
- Đẩy mạnh cổ phần hóa và cải cách Doanh nghiệp Nhà nước sẽ giúp cho các Doanh nghiệp này chủ động tìm kiếm cơ hội thị trường và nhờ đó có thể sẽ phát triển nhanh hơn. Nhà nước không nên e ngại việc không bán được cổ phiếu ra bên ngoài tại thời điểm cổ phần hóa. Nhà nước vẫn có thể nắm đa phần vốn chủ sở hữu tại các Doanh nghiệp sau khi đã cổ phần. Doanh nghiệp sau cổ phần vẫn có thể có động lực đổi mới phát triển nếu Nhà nước cam kết sẽ thưởng cho Doanh nghiệp một phần lợi nhuận có được từ phần cổ phiếu thoái vốn của mình nếu Doanh nghiệp làm ăn phát đạt.
- Tiếp tục các chính sách về thắt chặt chi tiêu Chính phủ và đầu tư công; tiếp tục việc hạn chế tiêu dùng các mặt hàng xa xỉ phẩm như ô tô, xe máy, rượu ngoại…Việc thắt chặt chi tiêu Chính phủ và chuyển các khoản đầu tư công sang cho khu vực tư nhân sẽ góp phần vào việc giảm thuế cho khu vực Doanh nghiệp và Thuế thu nhập cá nhân. Các Doanh nghiệp sẽ có thêm được nguồn vốn để mở rộng sản xuất và thị trường. Đây cần phải xem như là một chính sách dài hạn để khuyến
khích Doanh nghiệp phát triển. Khi đó Nhà nước dùng tiền thuế chủ yếu vào việc giữ gìn an ninh trật tự, qui hoạch và giám sát qui hoạch, điều hòa xung đột giữa các nhóm lợi ích trong xã hội, và ngăn ngừa thiên tai, khủng hoảng.
- Rà soát lại và lành mạnh hóa hệ thống tài chính Ngân hàng. Một hệ thống tài chính, ngân hàng lành mạnh là tối cần thiết để đảm bảo sự phát triển bền vững cho nền kinh tế. Chính phủ cần phải xem xét lại các định chế quản lý tài chính ở các ngân hàng và đưa ra tín hiệu rõ ràng rằng Chính phủ sẽ không bao dung những ngân hàng mà không chủ động có những biện pháp tự phòng ngừa rủi ro. Chính phủ cần rà soát lại các ngân hàng cho vay nhiều vào khu vực bất động sản và các loại dự án có tính rủi ro cao. Với những trường hợp có nguy cơ cao, Chính phủ cần yêu cầu cũng như tham vấn các bên để thực hiện các biện pháp mua bán nợ nhằm chia sẻ rủi ro cho nhiều định chế tài chính khác có khả năng kiểm soát rủi ro tốt hơn, có mức độ thanh khoản tốt hơn. Trong trường hợp cần thiết, Chính phủ nên yêu cầu các ngân hàng yếu kém sáp nhập vào các ngân hàng khác khi tình hình tài chính của các NHTM này vẫn còn chưa đến mức tồi tệ.
- Cuối cùng, trong bất kỳ thời điểm nào thì việc hoàn thiện hệ thống pháp lý và đề ra những quyết sách cho phù hợp với tình hình hiện tại cũng là một việc làm rất quan trọng. Chính phủ cũng cần cân nhắc cẩn trọng trong việc đưa ra các nghị quyết, quyết định, thông tư, chỉ thị,… có liên quan đến hoạt động của các Doanh nghiệp và thị trường bởi những văn bản pháp luật ấy sẽ có tác động rất lớn, đôi khi là những tác động tiêu cực không mong muốn.
3.2. Đối với cơ quan quản lý thị trường
- Vai trò của TTCK không đơn thuần chỉ là nơi huy động vốn cho các Doanh nghiệp. Chức năng chính của nó là định hướng các nguồn lực vào những lĩnh vực có khả năng đem lại lợi nhuận tốt nhất trong tương lai. Để đảm nhận được chức năng này, TTCK cần những nhà đầu tư tài ba và chuyên nghiệp, biết tính toán đắn đo cho từng sự thay đổi giá trị cổ phiếu. Tuy nhiên việc duy trì biên độ trên TTCK hiện nay có ý nghĩa khuyến khích những nhà đầu tư ưa mạo hiểm tham gia vào thị trường hơn là những nhà đầu tư biết tính toán. Khi duy trì mức giá trần và giá sàn, những nhà đầu tư sẵn sàng đặt giá trần hoặc giá sàn mà không cần phải lo rằng mức giá đó là quá cao hoặc quá thấp. Biến động thị giá cổ phiếu không phải là
do kết quả tính toán cẩn trọng của các nhà đầu tư trong việc hướng nguồn lực tới những lĩnh vực có khả năng sinh lợi cao. TTCK bị biến thành một loại “sòng bạc” làm giàu cho những tay chơi trường vốn và mánh khóe. Những nhà đầu tư nhỏ lẻ cũng như nhân viên có cổ phần của các Doanh nghiệp niêm yết dễ dàng bị tước đoạt nguồn vốn ít ỏi của mình vì sự không am hiểu, cũng như không có đủ cơ hội để am hiểu các mánh khỏe của TTCK kiểu này. Vì vậy, TTCK Việt Nam cần tiến tới việc loại bỏ các biên độ giao dịch trên 2 sàn. Việc làm này sẽ khiến cho các nhà đầu tư phải tính toán cho từng mức giá mà họ đặt, giúp cho họ có thể nhanh chóng huy động được nguồn tài chính khổng lồ cho những Doanh nghiệp có tiềm năng sinh được lợi nhuận cao, và nhanh chóng thoái lui khỏi những Doanh nghiệp có chính sách kinh doanh sai lầm. Thị trường sẽ chỉ là sân chơi dành cho những nhà đầu tư thực thụ giúp nền kinh tế định hướng phát triển bền vững. Những cá nhân khác muốn tham gia vào TTCK sẽ buộc phải thông qua những nhà đầu tư chuyên nghiệp nếu họ không muốn bị thua lỗ. Đây là điều kiện cần thiết để giúp cho TTCK thực sự trở thành “phong vũ biểu” của nền kinh tế.
- Công việc trọng tâm nhất trong thời kỳ hiện nay của UBCKNN là đẩy mạnh công cuộc tái cấu trúc TTCK Việt Nam nhằm xây dựng một TTCK hiện đại, chuyên nghiệp và quy mô hơn, đủ lực để tiếp nhận những thách thức mới trong tương lai. Đồng thời, UBCKNN cần kết hợp với các SGDCK, TTGDCK tăng cường giám sát thị trường, xử phạt nghiêm các Doanh nghiệp “cố tình” lập báo cáo tài chính lỗ thành lãi. Ngoài ra, các Sở và Trung tâm giao dịch nên tổ chức nhiều buổi gặp gỡ và đối thoại giữa công ty niêm yết và nhà đầu tư để cập nhật thông tin chính xác và minh bạch.
- Để tăng cung chứng khoán niêm yết, UBCKNN cần áp dụng các biện pháp để khuyến khích các công ty mới niêm yết trên thị trường; cần thắt chặt mối quan hệ giữa cổ phần hóa và niêm yết; khuyến khích các công ty niêm yết chào bán quyền mua cổ phiếu dài hạn; đẩy nhanh tiến độ thành lập thị trường UpCOM… Để kích cầu thị trường UBCKNN cần xem xét thành lập quỹ bình ổn thị trường cổ phiếu; khuyến khích thêm nhiều nhà đầu tư có tổ chức tham gia vào thị trường.
- UBCKNN cần phải nâng cao hơn nữa các biện pháp quản lý hoạt động của các CTCK. Từ đó các CTCK phải không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp cho nhà đầu tư, chú trọng vào các dịch vụ có thế mạnh, không triển khai
dịch vụ một cách tràn lan dẫn đến kết quả không cao, lỗ nhiều hơn lãi. Các CTCK nên thận trọng trong khâu tư vấn các nhà đầu tư. Nếu tư vấn không tốt, sẽ ảnh hưởng đến không những túi tiền của nhà đầu tư mà còn ảnh hưởng tới thị trường và uy tín của công tác. Trong công tác tư vấn, CTCK không nên chạy theo số lượng cần chú trọng vào chất lượng và quan tâm tới trình độ cũng như tiềm lực của nhà đầu tư; không nên vận dụng nhiều phương pháp kỹ thuật để dự đoán VN-Index, vì trình độ nhận thức của nhà đầu tư chưa đạt đến mức chuyên nghiệp, đa phần là tự phát và đầu tư theo cảm tính, do đó nên dùng phương pháp cơ bản với những lập luận chắc chắn, dễ hiểu. Bên cạnh đó, khuyến khích các CTCK tiến hành cải tổ, mở rộng phạm vi khinh doanh nếu có khả năng, tăng cường năng lực tài chính, củng cố các nguyên tắc bảo mật, áp dụng các biện pháp ưu đãi về thuế cho các CTCK…
- UBCKNH cần tăng cường kiểm tra cấp phép đối với các chuyên gia tác nghiệp trên thị trường; thành lập hiệp hội các công ty niêm yết Việt Nam; khuyến khích nhà đầu tư không ngừng củng cố kỹ năng và nghiên cứu thông qua các chương trình đào tạo chuyên môn liên tục; tăng cường đào tạo kỹ năng cho thị trường vốn thông qua việc phối hợp với các trường đại học trong việc xây dựng các chương trình giảng dạy; tăng cường các hoạt động giáo dục và bảo vệ người đầu tư thông qua các chương trình tuyên truyền phổ biến kiến thức.
- UBCKNN cũng cần kiểm soát các đơn vị truyền thông, báo chí về vấn đề thận trọng trong việc công bố các thông tin về TTCK, nhất là các phát biểu, nhận định, dự đoán về TTCK; tăng cường đưa tin về hoạt động của các Doanh nghiệp, tin tức về các ngành nghề kinh tế để nhà đầu tư có điều kiện tiếp cận.
KẾT LUẬN
Diễn biến của TTCK năm 2008 đã quá bất ngờ và không kịp phản ứng đối với các nhà đầu tư, các nhà quản lý hoạch định chính sách và cả các chuyên gia phân tích, dự báo thị trường. Không một ai ngờ rằng, chỉ số trên cả 2 sàn đã “rơi” gần 70%; TTCK có lúc có đến 28 phiên liên tiếp giảm điểm kịch sàn. Điều này chưa từng diễn ra ở Việt Nam và cũng không có nhiều TTCK trên thế giới có mức sụt giảm mạnh như vậy. Chỉ số S&P 500 của Mỹ tổng kết trong hơn 100 năm qua cũng chỉ có một lần giảm tới 50%/năm. Chưa bao giờ lại có sự hoảng loạn như vào thời điểm tháng 05 - 06/2008 khi nỗi lo ngại diễn ra khủng hoảng thị trường tài chính - tiền tệ ngày càng gần. Nghiêm trọng hơn, nền kinh tế chúng ra lại phải chịu tác động của suy thoái kinh tế sâu sắc trên phạm vi toàn cầu. Gánh nặng này một lần nữa lại trút lên TTCK. Như thế để thấy TTCK cũng như nền kinh tế Việt Nam đã phát triển quá nóng trong năm 2007, và hậu quả sau đó là sự “xì hơi” của bong bóng bất động sản, chứng khoán mà nguyên nhân chính là do tác động mạnh mẽ của lạm phát, lãi suất, tỷ giá… và khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế nói chung và TTCK nói riêng cũng mạnh hơn bao giờ hết trong năm 2008. Đã có bốn lần UBCKNN thay đổi biên độ giao dịch để chặn đà thị trường suy giảm, cũng phải kể đến sự tham gia đến đáng ngạc nhiên của Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) vào việc mua bán chứng khoán trên thị trường, rất nhiều gói giải pháp và chính sách thắt chặt tiền tệ - tín dụng được Chính phủ đưa ra kịp thời đón đầu tình hình mới.
Tựu trung lại, năm 2008 chúng ta đã chứng kiến, đã cảm nhận sâu sắc về sự khốc liệt của thị trường mà đại bộ phận các nhà đầu tư phải gánh chịu sự thất thoát thua lỗ quá sức. 2008 là năm chúng ta phải trả giá cho những gì mà thị trường vận hành chưa đúng trong năm 2007. Thua thiệt nhất vẫn là nhà đầu tư chứng khoán và các bài học rút ra rất thấm thía và đau đớn. Các nhà quản lý thị trường cũng đã rút ra được nhiều bài học bổ ích mà bài học lớn nhất là các biện pháp hành chính can thiệp vào thị trường dường như mang lại hiệu quả rất thấp và TTCK rất cần sự minh bạch.
Nhìn về năm 2009, dường như những gì là tồi tệ nhất đã diễn ra trong năm 2008 và năm 2009 sẽ bắt đầu hồi phục để lấy đà tăng trưởng bền vững cho giai đoạn 2010 - 2015, đó là sự lạc quan cần thiết trong thời điểm hiện tại. Tuy nhiên sự hồi phục của TTCK còn phụ thuộc vào sự hồi phục nhanh hay chậm của nền kinh tế bên ngoài. Việc ý nghĩa thiết thực, giúp ích nhiều nhất cho nhà đầu tư chứng khoán để hạn chế rủi ro chính là sự minh bạch của các chính sách thực thi, quy tắc và thể chế điều hành thị trường; minh bạch, bình đẳng, công bằng và kịp thời các thông tin công bố của Doanh nghiệp niêm yết …
Một sự kiện thú vị được phát hiện trong cơn khủng hoảng tài chính toàn cầu là lần đầu tiên TTCK Việt Nam có diễn biến đồng điệu với TTCK Mỹ trong một thời gian khá dài kể từ ngày 15/09/2008. Nhà đầu tư Việt Nam thay vì nhìn vào báo cáo tài chính, chỉ số VN-Index, đã chuyển sang quan tâm đặc biệt đến diễn biến lên xuống của chỉ số chứng khoán Mỹ và chỉ số chứng khoán toàn cầu. Hiện tượng “Mỹ hóa” TTCK này được giải thích là cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ có ảnh hưởng lớn đến các TTCK toàn cầu, trong đó có Việt Nam, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO. Chính vì vậy, hiện nay, hầu hết các chuyên gia kinh tế vẫn cho rằng, khả năng phục hồi của TTCK Việt Nam phụ thuộc chủ yếu vào hai yếu tố: thứ nhất là nội lực của các Doanh nghiệp Việt và thứ hai là sự phục hồi của các TTCK chủ chốt trên thế giới, đặc biệt là TTCK Mỹ.
Và cuối cùng, chúng ta hãy nên lạc quan về triển vọng của TTCK Việt Nam trong năm tới. Rủi ro vẫn còn đó nhưng đan xen với nó là những cơ hội. Nhà đầu tư biết tận dụng cơ hội, đón đầu thử thách, đưa ra những quyết định đúng đắn trong việc lựac chọn cổ phiếu đầu tư sẽ có một năm 2009 thành công.