vẫn giữ vai trò quan tọng trong việc theo đuổi mục tiêu ổn định giá cả và tỉ lệ lạm phát duy trì ở mức thấp trong trung-dài hạn.
2.2.2. Mục tiêu tổng phương tiện thanh toán
Tổng phương tiện thanh toán phản ánh khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế tại một thời điểm nhất định, giúp các nhà hoạch định chính sách có thể theo dõi, đánh giá diễn biến khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế để từ đó đưa ra quyết định việc sử dụng các công cụ điều hành chính sách tiền tệ, kiểm soát cung ứng tiền tệ, duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng, kiềm chế lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tổng phương tiện thanh toán gồm: Tiền mặt trong lưu thông; Tiền gửi và tiền ký quỹ của các tổ chức kinh tế bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ loại không kỳ hạn và có kỳ hạn; Tiền gửi tiết kiệm bằng đồng Việt Nam, bằng ngoại tệ và vàng loại không kỳ hạn và có kỳ hạn; Phát hành giấy tờ có giá bằng đồng Việt Nam, ngoại tệ và vàng (TCTK, 2015). Phương pháp tính Tiền mặt trong lưu thông được tính bằng tổng số tiền do Ngân hàng Nhà nước phát hành trừ đi tiền mặt tồn quỹ tại Ngân hàng Nhà nước, Kho bạc Nhà nước và tại các tổ chức tín dụng và các tổ chức tài chính khác thuộc khu vực thể chế tài chính. Các chỉ tiêu được thể hiện dưới dạng số dư và được trích ra từ các tài khoản trong hệ thống tài khoản kế toán của Ngân hàng Nhà nước, tổ chức tín dụng, các tổ chức tài chính khác, Kho bạc Nhà nước (TCTK, 2015).
Biểu đồ 2.4: Diễn biến tổng phương tiện thanh toán mục tiêu và thực hiện
50%
25%
40%
20%
Có thể bạn quan tâm!
- Tổng Quan Lý Thuyết Và Thực Nghiệm Về Cơ Chế Truyền Dẫn Tiền Tệ Thông Qua Kênh Tín Dụng Ngân Hàng
- Sơ Đồ Kênh Tín Dụng Ngân Hàng Tóm Tắt Từ Bernanke Và Blinder (1988)
- Thực Thi Chính Sách Tiền Tệ Tại Việt Nam Thông Qua Kênh Tín Dụng Ngân Hàng
- Kết Quả Hoạt Động Nghiệp Vụ Thị Trường Mở, Giai Đoạn 2000-2014
- Diễn Biến Tăng Trưởng Kinh Tế, Lạm Phát Và Tăng Trưởng Tín Dụng Hàng Năm
- Thiết Lập Mô Hình Xác Định Kênh Truyền Dẫn Tín Dụng Ngân Hàng Ở Việt Nam
Xem toàn bộ 138 trang tài liệu này.
15%
30%
10%
20%
5%
10%
0%
0%
-5%
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
TPTTT mục tiêu
TPTTT thực hiện
Lạm phát
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ BCTN của Tổng cục Thống kê, 2000-2014
Diễn biến mục tiêu tổng phương tiện thanh toán thực tế và mức mục tiêu được đặt ra qua các năm được tình bày tại Biểu đồ 2.4 chỉ ra rất rõ sự biến động tương đối
33
của cung tiền. Từ đây, giai đoạn 2001-2003 thể hiện cung tiền được thắt chặt vì tổng phương tiện thanh toán thực tế thấp hơn mục tiêu đặt ra. Tương tự như vậy, giai đoạn 2004-2007, cung tiền được mở rộng liên tục được thể hiện khoảng cách giữa tổng phương tiện thanh toán thực tế so với mục tiêu cần kiểm soát roãng rộng. Tuy nhiên, lạm phát xuất hiện và tăng liên tục từ cuối năm 2007 và trong năm 2008 đã buộc NHNN phải thắt chặt tiền tệ, kết quả là tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán năm 2008 được kéo xuống. Khủng hoảng toàn cầu đã làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế trong nửa sau của năm 2008 và đầu năm 2009 (TCTK). Do đó, mục tiêu tăng trưởng kinh tế lại được ưu tiên và cung tiền được mở rộng thông qua gói kích cầu khoảng
143.000 tỉ đồng, tương đương 8 tỷ đô la Mỹ (Lê Châu, 2009). Chính vì lẽ đó, tổng phương tiện thanh toán tăng cao và vượt qua mục tiêu cần kiểm soát trong giai đoạn 2009-2010. Tuy nhiên, bất ổn của lạm phát lại tái diễn đã buộc NHNN phải thận trọng hơn trong điều hành CSTT, và kết quả dẫn đến khoảng cách được thu hẹp giữa mục tiêu và thực tế của tổng phương tiện thanh toán trong giai đoạn 2011-2014.
2.3. Các công cụ thực thi chính sách tiền tệ
Các công cụ chính sách tiền tệ được NHNN sử dụng rất linh hoạt tùy thuộc vào bối cảnh của lạm phát và mức độ tăng trưởng kinh tế. Chính vì lẽ đó, có những công cụ không được sử dụng trong cả khoảng thời gian dài thì lại được tái sử dụng để kiểm soát lạm phát. Do đó, phần nội dung này sẽ tổng quan các công cụ chính sách tiền tệ được sử dụng nhưng sẽ tập trung vào công cụ có liên quan làm thay đổi cung, cầu tín dụng ngân hàng.
2.3.1. Công cụ dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc là công cụ tiền tệ được nhiều ngân hàng trung ương các nước sử dụng vì tính truyền dẫn nhanh đến hệ thống ngân hàng. NHTW muốn điều chỉnh nhanh tổng phương tiện thanh toán hay cung tiền cũng như hạn chế tăng trưởng tín dụng nóng, thì việc điều chỉnh tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc sẽ là biện pháp mà các NHTW thường nghĩ đến và sử dụng nó. Tuy nhiên, các nước có hệ thống tài chính phát triển thì thường không sử dụng các công cụ trực tiếp như DTBB mà thay vào đó sẽ sử dụng các công cụ thông qua hoạt động thị trường mở. Ngược lại, NHTW muốn mở rộng tín dụng để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, giảm tỉ lệ DTBB và duy trì ở mức thấp trong thời gian dài sẽ tạo ra hệ số nhân tiền tệ lớn hơn, các ngân hàng tăng khả năng mở rộng tín dụng.
Điều 45 Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 1990 là văn bản pháp quy đầu tiên quy định về việc thực hiện công cụ dự trữ bắt buộc (DTBB) đối với các
TCTD, từ mức 10% đến 35% trên tổng số dư tiền gửi huy động. Tỉ lệ dự trữ bắt buộc (DTBB) được NHNN điều hành chính thức kể từ tháng 7/1992 sau khi Qui chế dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng được ban hành ngày 9/6/1992. Quy định về tỉ lệ DTBB đã thay đổi sau khi luật NHNN ra đời vào năm 1997. Tỉ lệ DTBB được điều chỉnh giảm và quy định trong biên độ từ 0% đến 20%. Cải thiện phương thức điều hành công cụ DTBB được thể hiện trong Quyết định số 581/2003/QĐ-NHNN1, ngày 9/6/2003, về việc Ban hành Quy chế DTBB đối với các TCTD. Tỉ lệ DTBB quy định riêng biệt với nội tệ, ngoại tệ, khác nhau giữa thời hạn huy động không kì hạn, có kì hạn dưới 12 tháng và trên 12 tháng; Phân biệt giữa TCTD đô thị, nông thôn, NHTM, TCTD hợp tác, quỹ tín dụng nhân dân.
Công cụ DTBB chỉ thực sự được phát huy sau năm 2000 bởi sự thay đổi linh hoạt của nó theo mục tiêu CSTT mở rộng hay thắt chặt của NHNN (Biểu đồ 2.5). DTBB bằng tiền gửi VND bắt đầu giảm xuống mức 7% từ mức 10% kể từ tháng 3/1999 và xuống mức đáy 2% duy trì trong giai đoạn 08/2003-06/2004 và tăng bật trở lại do sức ép của lạm phát. Trước bối cảnh CPI tăng cao trong những tháng đầu năm 2004, để ổn định tiền tệ và theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế, NHNN đã điều chỉnh DTBB từ tháng 7/2004. Cụ thể, tiền gửi kỳ hạn dưới 12 tháng tăng từ 2% lên 5% đối với VND và từ 4% lên 8% đối với tiền gửi ngoại tệ. Đối với tiền gửi kỳ hạn từ 12 tháng trở lên đến dưới 24 tháng, tăng từ 1% lên 2% áp dụng cho cả tiền gửi VND và ngoại tệ (BCTN NHNN 2004). Để giữ ổn định lạm phát, NHNN tiếp tục duy trì tỉ lệ DTBB ở mức trên đến tháng 5/2007.
Biểu đồ 2.5: Diễn biến tỉ lệ DTBB đối với tiền gửi VND và USD giai đoạn 2000-2014
16%
14%
12%
10%
8%
6%
4%
2%
0%
VND (KH<12 tháng)
USD (KH<12 tháng)
VND≥12 tháng
USD≥12 tháng
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ BCTN của NHNN, 2000-2014
Mặc dù NHNN giữ tỉ lệ DTBB cao để ổn định tiền tệ, nhưng các công cụ khác lại được sử dụng để hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong giai đoạn 9/2003-1/2008, lãi suất chiết khấu dao động từ 3% đến 4,5%, trong khi lãi suất tái cấp vốn chỉ ở mức 5% đến 6,5% đã góp phần hỗ trợ các ngân hàng mở rộng tín dụng. Tín dụng tăng trưởng cao và liên tục đã gây sức ép lớn lên lạm phát, do vậy, NHNN phải tăng tỉ lệ DTBB tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng lên tiếp 10% từ tháng 5/2007. Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng nóng trong thời gian dài đã đẩy lạm phát vượt lên 2 con số từ tháng 11/2007, sau một thời gian dài duy trì ở mức trên 5% kể từ tháng 3/2004. Đây là điểm bắt đầu của giai đoạn lạm phát tăng nhanh cho đến hết 2008. Đứng trước lạm phát lên tới hơn 20% trong năm 2008 đã buộc NHNN tiếp tục điều chỉnh tăng tỉ lệ DTBB lên tiếp 11% từ tháng 2/2008, áp dụng cho tiền gửi kỳ hạn dưới 12 tháng đối với cả VND và ngoại tệ.
Do NHNN quá tập trung vào kiểm soát lạm phát, thắt chặt tiền tệ đã có tác động không nhỏ đến tăng trưởng kinh tế. Năm 2008, tăng trưởng kinh tế chỉ đạt mức 6,3% - mức thấp nhất so với mức tăng trưởng cao từ 6,8% đến 8,5% trong chu kỳ từ năm 2000-2007. Chính vì vậy, NHNN đã nới lỏng tiền tệ thông qua giảm nhanh và sâu tỉ lệ DTBB. Nếu tháng 12/2008 tỉ lệ DTBB đối với tiền gửi VND kỳ hạn dưới 12 tháng giảm xuống còn 6% từ mức 10% áp dụng trong tháng 11/2008, thì đến tháng 1/2009
chỉ còn 2% và xuống tiếp 1% ngay trong tháng 3/2009 và kéo dài đến tháng 12/2009, và sau đó NHNN tăng trở lại mức 3% kể từ tháng 1/2010 và duy trì đến thời điểm hiện tại đang thực thi. Tỉ lệ DTBB đối với tiền gửi ngoại tệ giảm ít hơn nhằm tiếp tục theo đuổi mục tiêu chống đô la hóa (Báo cáo thường niên NHNN, 2009).
2.3.2. Hạn mức tín dụng
Hạn mức tín dụng (HMTD) là công cụ can thiệp trực tiếp, mang tính hành chính của NHNN, được sử dụng để khống chế tổng dư nợ tín dụng, qua đó khống chế mức tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán theo mục tiêu đề ra trong điều hành chính sách tiền tệ hàng năm. Như vậy, hạn mức tín dụng là công cụ hành chính thông qua đó NHNN áp đặt cho các TCTD và kiểm soát thực hiện trong năm.
Hạn mức tín dụng được NHNN sử dụng từ năm 1994 thông qua việc áp đặt hạn mức tăng trưởng tín dụng cho 4 NHTM quốc doanh. Sau đó, việc áp dụng HMTD được mở rộng sang NHTM cổ phần và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài lớn nhằm hạn chế tốc độ cho vay, để kiểm soát lạm phát. Trong điều kiện thị trường thứ cấp chưa phát triển, Ngân hàng Nhà nước chưa thể sử dụng thị trường mở để kiểm soát sự gia tăng tổng phương tiện thanh toán, thì việc sử dụng công cụ này là cần thiết. Hạn mức tín dụng tiếp tục được phát triển thông qua quy chế cho phép các TCTD mua, bán hạn mức tín dụng lẫn nhau trong trường hợp không sử dụng hết hạn mức được phân bổ (Quyết định số 43/QĐ-NH14 ngày 26/02/1996 về Quy chế mua bán hạn mức tín dụng giữa các TCTD).
Sau hơn 13 năm được dỡ bỏ, đến năm 2011, công cụ HMTD lại được Ngân hàng Nhà nước sử dụng trong điều hành. Cụ thể, theo Chỉ thị 01/CT-NHNN, ngày 01/3/2011 về thực hiện giải pháp tiền tệ và hoạt động ngân hàng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các NHTM xây dựng kế hoạch tăng trưởng tín dụng cho năm 2011 không được tăng quá 20% dư nợ so với cuối năm 2010 và phải được Ngân hàng Nhà nước phê duyệt. Bên cạnh HMTD nói chung, trong năm 2011, Ngân hàng Nhà nước còn quy định HMTD đối với lĩnh vực phi sản xuất, như: bất động sản, chứng khoán, vay tiêu dùng khác... đến ngày 31/12/2011 còn tối đa 16%. Có thể thấy rằng, việc cơ quan quản lý nhà nước kiên quyết giảm tốc độ và tỷ trọng tín dụng phi sản xuất là đúng! Bởi, hoạt động cho vay khu vực này lại chủ yếu nằm ở các NHTM trong nước (Nguyễn Văn Hà, 2013). Kết quả thực hiện đến hết năm 2011, dư nợ tín dụng cả nền kinh tế chỉ đạt 12%, thấp hơn nhiều kế hoạch đề ra, HMTD đối với lĩnh vực phi sản xuất cũng đảm bảo thực hiện nghiêm túc.
Năm 2012 NHNN quyết định phân bổ hạn mức tín dụng cho từng NHTM theo các tiêu chí: chất lượng tài sản nợ, tài sản có, quy mô vốn, năng lực quản trị điều hành, quản trị rủi ro, chất lượng nhân lực và tuân thủ các quy định. Theo đó, các nhóm được phân loại bởi NHNN được áp dụng các hạn mức như sau: Nhóm thứ nhất tăng trưởng tín dụng ở mức tối đa 17%; nhóm thứ hai tăng trưởng tín dụng ở mức tối đa 15%; nhóm ba được tăng trưởng 8%; nhóm thứ tư thuộc diện phải cơ cấu lại, không được tăng trưởng tín dụng. Sau 6 tháng thực hiện, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xem xét điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đối với các tổ chức tín dụng phù hợp với diễn biến tiền tệ, tín dụng, hoạt động ngân hàng, đảm bảo đạt được mục tiêu chính sách tiền tệ (Chỉ thị 01/CT-NHNN, ngày 13 tháng 02 năm 2012).
Mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ năm 2013 tiếp tục chặt chẽ, thận trọng, linh hoạt, gắn kết chặt chẽ với chính sách tài khóa nhằm kiểm soát lạm phát thấp hơn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao hơn năm 2012 đã buộc NHNN phải kiểm soát tăng trưởng tín dụng đối với các tổ chức tín dụng để đảm bảo mở rộng tín dụng phù hợp với khả năng huy động vốn của tổ chức tín dụng và định hướng tín dụng cả năm tăng khoảng 12%, đồng thời với việc kiểm soát chất lượng tín dụng và xử lý nợ xấu. Khác với việc giao hạn mức tăng trưởng tín dụng theo nhóm ngân hàng, NHNN thông báo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đối với các tổ chức tín dụng phù hợp với quy mô, chất lượng tín dụng, khả năng quản lý thanh khoản, khả năng quản trị điều hành của tổ chức tín dụng và chủ trương của Chính phủ về tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường (Chỉ thị 01/CT-NHNN, ngày 31 tháng 01 năm 2013). Ám ảnh hậu quả của lạm phát cao, điều hành chính sách tiền tệ năm 2014 vẫn phải phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Chính vì vậy, hạn mức tăng trưởng tín dụng tiếp tục được thực thi và được giao đến từng TCTC như năm 2013 (Chỉ thị 01/CT-NHNN, ngày 15 tháng 01 năm 2011).
2.3.3. Công cụ lãi suất
Lãi suất tái cấp vốn, Lãi suất chiết khấu
Lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu là công cụ tác động đến tiền gửi/tín dụng ngân hàng. Rõ ràng, giai đoạn 2000-2008 Ngân hàng Nhà nước duy trì tín dụng mở rộng để hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (Biểu đồ 2.6) thông qua việc duy trì kéo dài mức lãi suất cho vay tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu ở mức thấp, qua đó các TCTD có thể vay với mức chi phí thấp hơn. Tuy nhiên, trước sức ép của lạm phát năm 2009 có thể gây bất ổn cho công chúng và làm mất niềm tin, NHNN đã đẩy lãi suất
cho vay tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu lên rất cao, gấp đôi so với năm 2008 để giảm bớt tín dụng và qua đó kiểm soát được lạm phát.
Biểu đồ 2.6: Diễn biến lãi suất chiết khấu & lãi suất tái cấp vốn giai đoạn 2000- 2014
16%
14%
12%
30%
25%
20%
10%
8%
6%
15%
10%
4%
2%
0%
5%
0%
-5%
LS chiết khấu
LS tái cấp vốn
y-o-y lạm phát
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ BCTN của NHNN, 2000-2014
Sau khi lạm được kiểm soát năm 2010, NHNN đã cắt giảm lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu về mức thấp. Tuy nhiên, do tín dụng tăng trưởng kéo dài và tăng trưởng nóng nên mức độ tác động trễ đến lạm phát và kết quả lạm phát lại tăng cao trở lại năm 2010-2011 đã buộc NHNN phải tăng mức lãi suất cho vay tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu. Biểu đồ 2.6 chỉ ra hai thời điểm NHNN điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu là hai thời điểm lạm phát đang ở mức rất cao và sau đó sẽ giảm khi lạm phát đã được kiểm soát. Như vậy, rõ ràng 2 công cụ này chỉ sử dụng trong ngắn hạn để hỗ trợ ngăn chặn lạm phát đang đà tăng cao, và sau đó nó trở lại vị trí của nó là duy trì ở mức thấp để hỗ trợ thanh khoản và nhu cầu vốn ngắn hạn là chủ yếu. Và như đã trình bày ở trên, NHNN bắt đầu sử dụng chặt chẽ hạn mức tín dụng tăng trưởng cho từng ngân hàng, từng nhóm ngân hàng trong giai đoạn từ cuối năm 2011 để mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.
Trần lãi suất tiền gửi
Diễn biến kinh tế vĩ mô có nhiều khó khăn, lạm phát tăng cao, thị trường vàng và ngoại tệ biến động phức tạp, thị trường chứng khoán và bất động sản suy giảm mạnh đã buộc NHNN có những biện pháp mạnh để kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Hệ thống ngân hàng Việt Nam đối mặt với những rủi ro ngày càng gia tăng, nổi
bật là rủi ro tín dụng, rủi ro tỉ giá và rủi ro lãi suất khiến nhiều tổ chức tín dụng (TCTD) tiếp tục gặp khó khăn về thanh khoản do nợ xấu tăng cao, gây mất an toàn hệ thống ngân hàng. Chính vì vậy, trong những tháng cuối năm 2011, tình hình thanh khoản của một số TCTD bị thiếu hụt lớn và nằm trong tình trạng báo động, thị trường tiền tệ tiềm ẩn nhiều rủi ro bất ổn, lãi suất cho vay ở mức cao lên đến 20-25%/năm. Để bảo đảm trật tự, kỷ cương thị trường tiền tệ, ngày 7/9/2011, NHNN ban hành Chỉ thị số 02/CT-NHNN yêu cầu các TCTD ấn định lãi suất huy động bao gồm cả khoản chi khuyến mại dưới mọi hình thức không được vượt quá 14%/năm và đưa ra các chế tài xử lý đối với cá nhân là người quản lý, điều hành của TCTD và TCTD vi phạm quy định về lãi suất. Mặc dù lãi suất thị trường đã được kéo xuống mức sâu nhưng NHNN vẫn duy trì trần lãi suất tiền gửi để nhằm mục đích giảm giá vốn và qua đó các TCTD sẽ giảm lãi suất cho vay. Từ đây, các doanh nghiệp sẽ giảm bớt được gánh nặng chi phí lãi.
2.3.4. Tỉ giá
Điều hành tỉ giá của NHNN giai đoạn 2001-2014 đã có nhiều sự thay đổi, ít tạo ra các cú sốc sau mỗi lần điều chỉnh so với giai đoạn trước. Cụ thể, giai đoạn 1997- 1998, chính sách tỉ giá điều hành dưới sức ép của cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á đã buộc NHNN phải điều chỉnh biên độ tỉ giá mở rộng tới ±5% trong tháng 2/1997 và tiếp tục tăng lên ±10% trong tháng 10/1997. Thêm vào đó, NHNN điều chỉnh tỉ giá từ mức 11.175VND/USD lên mức 11.800VND/USD trong tháng 2/1998 để giảm sức ép đồng VND lên giá tương đối, điều chỉnh tỉ giá chuẩn (NHNN).
Biểu đồ 2.7: Tỉ giá chính thức NHNN công bố ngày cuối tháng