TSĐB để quyết định số vốn ngân hàng cho vay là không khoa học và sau này nếu dự án phải sử dụng đến những tài sản này để bù đắp tổn thất thì việc phát mại tài sản sẽ vô cùng khó khăn. Do vậy, trong năm 2009, mặc dù có tới 207 dự án cần phải xử lý TSĐB để thu hồi nợ nhưng ngân hàng mới chỉ xử lý được dứt điểm 48 dự án (thu hồi được 88,2 tỷ đồng), còn lại 19 dự án xử lý được một phần TSĐB và 140 dự án chưa có cách dùng TSĐB để xử lý.
Nguyên nhân cuối cùng là cán bộ của VDB chưa đáp ứng được yêu cầu công việc.
Khối lượng công việc ngày càng nhiều, VDB lại đang điều chỉnh dần về mô hình tổ chức và các hoạt động nghiệp vụ nên chất lượng đội ngũ lao động quyết định sâu sắc đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Tuy vậy, hạn chế về đội ngũ cán bộ tại VDB thể hiện ở cả trong đội ngũ cán bộ quản lý và công nhân viên.
Tình trạng nợ quá hạn, nợ xấu tỷ trọng lớn một phần từ phía khách hàng, tuy nhiên thực tế cho thấy không thiếu được sự tiếp tay của đội ngũ cán bộ, lãnh đạo các chi nhánh. Đây là nguyên nhân thuộc về rủi ro đạo đức. Thời gian qua trong hệ thống VDB xảy ra tình trạng giám đốc chi nhánh bị bắt, một số giám đốc bị buộc thôi việc, hoặc giám đốc bị chuyển xuống đi thu nợ là minh chứng cho vấn đề này. Nguyên nhân sâu xa của thực tế này là do cơ chế tác nghiệp của VDB và công tác đào tạo tuyển dụng của ngân hàng. VDB hiện tại chưa có một quy định cụ thể về nhiệm vụ và mục tiêu hoạt động của ngân hàng, hoạt động của VDB thực hiện theo quy định trong Nghị định của Chính phủ nhưng tổ chức quản lý ngân hàng lại theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Dù chuyển sang hoạt động theo mô hình ngân hàng, cán bộ được đào tạo bài bản theo chuyên ngành ngân hàng, kế toán hiện mới đạt 58% tổng cán bộ ngân hàng. Trong đó, cán bộ quản lý nhiều chi nhánh trước đây là cán bộ quản lý trong lĩnh vực tài chính hoặc hành chính sự nghiệp, chưa hề được đào tạo bài bản hay có kinh nghiệm quản lý trong lĩnh vực ngân hàng nên trong điều hành công việc
còn gặp vô vàn khó khăn vì vừa làm vừa học. Cán bộ có trình độ đại học dù không thấp (khoảng 90%) nhưng hoặc là trình độ nghiệp vụ thực tế còn ít hoặc là được đào tạo theo các hệ ngoài chính quy nên khi bắt tay vào công việc không hiểu rõ hoặc không làm được ngay, phải có người dắt tay chỉ việc. Thậm chí một số cán bộ còn có tư tưởng an phận sau khi đã vào được ngân hàng nên không có ý thức tự hoàn thiện bản thân mặc dù đó là yêu cầu công việc. Do vậy đã tạo gánh nặng cho bộ phận quản lý phải bắt tay vào làm hầu hết mọi công việc hoặc có tình trạng trong một đơn vị một số ít người làm việc là chủ yếu, còn những người khác chỉ làm việc vặt dù thâm niên làm việc không nhỏ. Hiện nay đội ngũ cán bộ của VDB có hai mắt xích yếu nhất là cán bộ tác nghiệp ở Hội sở chính và lãnh đạo các chi nhánh.
Thêm nữa, nhìn chung cán bộ VDB có chả năng giao tiếp về cả tiếng việt và tiếng nước ngoài (Anh, Trung Quốc…) rất hạn chế. Số cán bộ vừa biết ngoại ngữ vừa nhanh nhạy trong giao tiếp quá ít trong hoàn cảnh khách hàng của ngân hàng ngày càng phong phú và đa dạng về đối tượng, quốc tịch và nhu cầu…Cuối cùng, trình độ tin học chỉ dừng ở mức độ soạn thảo văn bản thông thường. Một số yêu cầu thường xuyên của công việc như tra cứu, tìm và phân tích số liệu; sử dụng các hàm tài chính trong thẩm định dự án…phần lớn cán bộ ngân hàng chưa sử dụng được và sử dụng thành thạo. Do vậy, hàm lượng lao động thủ công trong triển khai công việc vẫn lớn cho dù máy tính được trang bị tương đối đầy đủ.
Bên cạnh những nguyên nhân trên thì hiệu quả hoạt động của VDB trong thời gian qua chưa cao cũng xuất phát một phần từ phía khách hàng của ngân hàng. Mặc dù là chủ đầu tư của các dự án lớn nhưng các doanh nghiệp vẫn chưa kiểm soát được dòng tiền của dự án dẫn đến mất khả năng thanh toán, tỷ trọng vốn nợ trên vốn chủ sở hữu vượt mức an toàn quá lớn kết hợp với sự biến động bất lợi của thị trường dẫn đến sự bấp bênh trong hoạt động của các doanh nghiệp, do vậy nguy cơ rủi ro tín dụng là không tránh khỏi. Dù VDB đã đi vào hoạt động một thời gian dài nhưng trong khách hàng của ngân hàng vẫn tồn tại
quan điểm vốn của NHPT là vốn cho không, là trợ cấp nên một số chủ đầu tư, thâm chí là các chính quyền địa phương cố tình chây ỳ không trả nợ…
*
* *
Có thể khái quát sau năm năm đi vào hoạt động theo mô hình của một ngân hàng thì VDB vẫn mang đậm bản chất là một “công cụ” tài trợ của Chính phủ chứ chưa phải là một trung gian tài chính độc lập và tự chủ. Sự “bao bọc” của Chính phủ và các cơ quan quản lý Nhà nước phản ánh trong từng hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng này. Đối với một TGTC non trẻ thì sự “bao bọc” đó là phù hợp, nhưng không phải trong thời gian dài. Với sự hạn hẹp về nguồn vốn từ NSNN cho đầu tư phát triển, với tầm quan trọng về cả quy mô và tác động kinh tế - xã hội của các DAPT cần được cấp tín dụng thì thực trạng hiệu quả hoạt động của VDB như thời gian vừa qua sẽ tất yếu dẫn đến nguy cơ mất bền vững và phụ thuộc ngày càng nhiều vào Chính phủ. Nếu như vậy thì không cần thiết phải chuyển từ QHTPT thành NHPT vì là một ngân hàng thì VDB hiện nay hạn chế cả về khả năng huy động vốn trên thị trường cũng như trong các nghiệp vụ ngân hàng. Khi mà thực tế đã chứng minh rằng sự phụ thuộc của VDB vào Chính phủ là không nên và không thể được thì chỉ còn con đường duy nhất là khắc phục tất cả những hạn chế hiện nay trong hoạt động của ngân hàng. Chương 3 của luận án sẽ đưa ra một số đề xuất để góp phần đạt được mục tiêu này.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
3.1. Định hướng về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước trong thời gian tới
Trên cơ sở Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020, TDNN tập trung vào một số nội dung sau đây [23][28]:
Thứ nhất, TDNN phải phù hợp với yêu cầu của WTO. Theo đó, tính chất ưu đãi sẽ được điều chỉnh phù hợp với Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng. Cụ thể: trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp sản xuất hàng nội địa thay thế hàng nhập khẩu là hình thức trợ cấp bị cấm (đèn đỏ) nên phải xóa trong thời gian nhất định (dài hay ngắn tùy thuộc vào khả năng đàm phán của Việt Nam); trợ cấp riêng biệt cho từng doanh nghiệp, lĩnh vực, ngành (đèn vàng) được phép duy trì và sẽ bị đối kháng nếu gây phương hại đến sản xuất và tiêu thụ hàng hóa của các nước thành viên khác nên Chính phủ cần kiểm soát chặt chẽ mức độ trợ cấp để tránh bị áp dụng các biện pháp đối kháng; trợ cấp cho phát triển cơ sở hạ tầng, y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường, phát triển các vùng và miền khó khăn là trợ cấp được phép (đèn xanh). Thêm nữa, chính sách TDNN phải đảm bảo tính minh bạch tể hiện ở tách bạch giữa cho vay chính sách và cho vay thương mại, đảm bảo môi trường pháp lý bình đẳng và hệ thống chính sách ổn định – công khai – rõ ràng – phù hợp với thông lệ quốc tế.
Thứ hai, tín dụng Nhà nước cần mở rộng cân đối với nguồn vốn. Các nguyên tắc tín dụng phải được đảm bảo đối với tất cả các khoản tín dụng Nhà nước. Dựa trên tính chất về chi phí và thời gian sử dụng của các nguồn vốn để quyết định dự án nhận tài trợ căn cứ vào tỷ lệ sinh lời và thời gian của dự án cũng như phương thức tài trợ phù hợp.
Thứ ba, tín dụng Nhà nước tạo động lực phát triển tín dụng thương mại. Tín dụng thương mại được cấp trên cơ sở thẩm định dự án và chỉ chấp nhận tài trợ khi dự án đạt hiệu quả tài chính và đảm bảo trang trải nợ. Do vậy, tín dụng thương mại góp phần thúc đẩy sự thành công của dự án. Theo đó, những dự án mà các TCTD có thể cấp tín dụng theo nguyên tắc tín dụng thương mại thì tín dụng Nhà nước không được tài trợ.
3.2. Định hướng hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam đến năm 2020 [23]
Định hướng chung
i. VDB là công cụ của Chính phủ nhằm hỗ trợ tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội thông qua thúc đẩy đầu tư phát triển và xuất khẩu theo sát chiến lược phát triển KT-XH của đất nước; tập trung vào hỗ trợ đầu tư các dự án phát triển và xuất khẩu các ngành hàng có thế mạnh của Việt Nam, thông qua đó nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, thúc đẩy phát triển các ngành nghề và vùng miền.
ii. Hoạt động năng động trên thị trường tài chính nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và huy động tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư và thúc đẩy xuất khẩu; góp phần phát triển thị trường tài chính của đất nước.
iii. Giảm dần và tiến tới xóa bỏ ưu đãi qua lãi suất, chuyển sang ưu đãi ở thời hạn cho vay, bảo đảm tiền vay và mức vốn cho vay. Tăng cường các hoạt động thị trường, lấy hiệu quả hoạt động thị trường để làm tốt hơn hoạt động chính sách, tạo nguồn thu nhằm có đủ nguồn trích lập DPRR theo thông lệ và giảm cấp bù từ NSNN.
iv. Tổ chức và hoạt động của VDB được hoàn thiện phù hợp với điều kiện trong nước và thông lệ quốc tế. Nâng cao tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tổ chức hoạt động và kết quả thực hiện nhiệm vụ theo hướng thị trường, công khai minh bạch. Nâng cao vai trò của VDB trong việc tham mưu, đề xuất và thực thi các chính sách hỗ trợ phát triển của Chính phủ.
v. Tập trung nâng cao chất lượng tín dụng, tăng cường kiểm tra, giám sát, quản lý chặt chẽ tiền vốn, cho vay đúng chính sách, không để thất thoát, lãng phí vốn, tiết kiệm chi tiêu. Đa dạng hóa dịch vụ theo hướng thị trường.
vi. Tập trung xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ có tính chuyên nghiệp cao, đủ năng lực và phẩm chất đáp ứng yêu cầu của quá trình xây dựng NHPT hiện đại, thực hiện tốt chính sách TDĐT và TDXK của Nhà nước.
Phương châm hoạt động: An toàn hiệu quả - Hội nhập quốc tế - Phát triển bền vững
Mục tiêu phát triển
o Mục tiêu chung
- Mục tiêu đến năm 2015: Phấn đấu đến năm 2015, khắc phục được cơ bản các tồn tại yếu kém nêu trên, đạt được các tiêu chí cơ bản của một ngân hàng theo hướng an toàn và tăng trưởng bền vững; từng bước đa dạng hóa các dịch vụ ngân hàng; giảm cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý từ ngân sách nhà nước.
- Đến năm 2020: NHPT thực sự trở thành công cụ đắc lực của Chính phủ trong hỗ trợ đầu tư và thúc đẩy xuất khẩu, hoạt động đạt trình độ chuyên nghiệp và hiện đại; phát triển mạnh các dịch vụ ngân hàng theo tiêu chuẩn thị trường để nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách TDĐT, TDXK của Nhà nước. Thực sự hội nhập với thị trường quốc tế trên cả hai phương diện: thị trường vốn và tài trợ xuất nhập khẩu hàng hoá. Đảm bảo tự chủ tài chính, tự trang trải toàn bộ chi phí quản lý, có tích luỹ và dự phòng vững chắc, đủ sức đảm nhiệm những nhiệm vụ mới trong bối cảnh Việt Nam đã cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020.
o Dự kiến vốn và dư nợ của ngân hàng tới năm 2015
Để đáp ứng yêu cầu hỗ trợ tăng trưởng và thúc đẩy xuất khẩu, trên cơ sở các HĐTD đã ký và các dự án tiềm năng, đặc biệt các dự án trọng điểm; dự kiến nhu cầu vốn cho TDĐT và TDXK trong những năm tới là rất lớn; tổng dư nợ và nguồn vốn tín dụng đạt hơn gấp 2 lần so với đầu năm 2011.
Bảng 3.1. Dự kiến nhu dư nợ và vốn của ngân hàng trong thời gian tới
Đơn vị: 1000 tỷ đồng
Nội dung (*) Dư nợ tín dụng Tốc độ tăng tín dụng Nguồn vốn Tốc độ tăng nguồn vốn | 2011 | 2012 | 2013 | 2014 | 2015 | Bình quân |
1 | 136 | 156 | 177 | 204 | 230 | |
20% | 14% | 13% | 15% | 13% | 15% | |
2 | 157 | 177 | 202 | 228 | 260 | |
21% | 13% | 14% | 13% | 14% | 15% |
Có thể bạn quan tâm!
- Phân tích hiệu quả hoạt động của Ngân hàng phát triển Việt Nam - 15
- Phân tích hiệu quả hoạt động của Ngân hàng phát triển Việt Nam - 16
- Phân tích hiệu quả hoạt động của Ngân hàng phát triển Việt Nam - 17
- Nâng Cao Năng Lực Huy Động Vốn Của Ngân Hàng
- Cải Thiện Năng Lực Thẩm Định Dự Án Tại Ngân Hàng
- Phân tích hiệu quả hoạt động của Ngân hàng phát triển Việt Nam - 21
Xem toàn bộ 217 trang tài liệu này.
(*): Các chỉ tiêu được quy đổi theo tỷ giá hiện hành; chưa tính nguồn vốn ODA
Nguồn: Báo cáo tổng kết 5 năm hoạt động của VDB
3.3. Quan điểm về hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam
Qua khái quát những bất cập trong thực trạng hoạt động của VDB có thể thấy năng lực tài trợ của ngân hàng vẫn hạn chế, chưa đủ đáp ứng yêu cầu về vốn để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế cũng như góp phần giải quyết các vấn đề xã hội. Thêm nữa, hoạt động, năng lực quản lý của ngân hàng chưa theo kịp yêu cầu của giai đoạn phát triển mới theo các nguyên tắc thị trường. Do vậy, VDB không những chưa hoàn thành tốt nhiệm vụ tài trợ của mình mà còn tạo thành một gánh nặng cho NSNN.
Nói VDB là công cụ tài trợ của Chính phủ không có nghĩa là ngân hàng cho vay đối với tất cả các dự án nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội mà với quyền chủ động nhất định được giao trong quá trình hoạt động thì ngân hàng cần có quan điểm về lựa chọn dự án cho phù hợp với năng lực của mình cũng như phù hợp với từng thời kỳ nhất định. Thêm nữa, do những bất cập về vốn cũng như năng lực quản lý món vay, VDB nên chuyển dần từ cho vay sang các hoạt động sử dụng vốn khác. Theo đó, hoạt động tài trợ của VDB với vai trò hỗ trợ được thể hiện qua các khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, hỗ trợ về cho vay theo nghĩa VDB là cứu cánh cho vay cuối cùng đối với các dự án
Khi các NHTM và các TCTD khác không sẵn sàng vốn để tài trợ cho dự án thì VDB sẽ sử dụng nguồn vốn dài hạn hiếm hoi của mình để tài trợ cho dự án
đó. Điều này xảy ra khi mà dự án chứa đựng mức rủi ro vượt quá khả năng chịu đựng của các TCTD khác hoặc giá trị gia tăng về tài chính mà dự án đem lại quá ít ỏi hoặc thời gian hoàn vốn của dự án quá dài. Đây là các dự án mà khu vực tư nhân cũng như các TCTD khác không không có đủ vốn hoặc ngần ngại tham gia tài trợ, tuy nhiên kết quả thẩm định cho thấy sản phẩm của dự án sẽ đem lại lợi ích kinh tế - xã hội đáng kể. Khía cạnh này thể hiện nỗ lực của VDB trong việc khuyến khích và thúc đẩy thực hiện các DAPT thông qua việc sẵn sàng chấp nhận rủi ro của các dự án đó. Vai trò “người cho vay cuối cùng” này của ngân hàng có ý nghĩa tiền đề cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, hỗ trợ về công nghệ theo nghĩa VDB là “chất xúc tác” trong việc tư vấn và tài trợ công nghệ cho các dự án
Công nghệ là một trong các yếu tố đầu vào không thể thiếu được và ảnh hưởng quyết định đến sự thành công của dự án. Tuy nhiên, sự hiểu biết về công nghệ và quan trọng là sự phù hợp của công nghệ đó đối với quá trình sản xuất ra sản phẩm của dự án, khả năng của người sử dụng công nghệ, khả năng đáp ứng về nguồn nguyên liệu và tiềm lực tài chính của chủ đầu tư để có được công nghệ đó…còn rất hạn chế. Thực tế đã chứng minh những tác động tiêu cực đối với doanh nghiệp và nền kinh tế khi sử dụng công nghệ không phù hợp. VDB với yêu cầu về đội ngũ cán bộ thẩm định và quản lý tín dụng am hiểu về công nghệ trong từng lĩnh vực tài trợ nhất định sẽ hỗ trợ các dự án trong việc tư vấn lựa chọn công nghệ phù hợp hoặc cấp tín dụng dưới hình thức cho dự án thuê công nghệ. Qua đó, VDB có thể cải thiện căn bản về chất lượng của dự án nhằm hạn chế rủi ro của dự án đó.
Thứ ba, hoạt động bảo lãnh tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu và hỗ trợ lãi suất sau đầu tư được coi là hoạt động chủ yếu của VDB
Với những tác động tiêu cực đến sự bền vững về tài chính của VDB cũng như NSNN khi cho vay theo lãi suất ưu đãi, hoạt động của VDB nên chuyển từ hình thức cho vay là chủ yếu sang hình thức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư và bảo