Tình Hình Nghiên Cứu Tại Khu Tđc Do Thủy Điện A Lưới

quan đến tiến độ xây dựng và bàn giao cơ sở hạ tầng, hệ thống cung cấp nước sạch,…[6].

Tất cả những công trình nghiên cứu trên đã chỉ rõ được những tác động của di dân TĐC do xây dựng các công trình thủy điện đến tất cả các mặt của đời sống xã hội. Bao gồm những tác động trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường. Phần lớn các nghiên cứu đã đưa ra được vấn đề TĐC có ảnh hưởng lớn đến phong tục tập quán của người dân trong sản xuất cũng như trong sinh hoạt văn hóa. Sự thay đổi do tác động này mang cả tính tích cực và tiêu cực. Tuy nhiên, những phân tích trên mới chỉ mang tính tổng quan, chưa đi sâu vào từng khía cạnh của sự thay đổi và do đó chưa thể hiện được mức độ ảnh hưởng của từng khía cạnh đến đời sống của người dân TĐC, đặc biệt trong khía cạnh thay đổi về các hình thức SXNN, yếu tố đóng vai trò quan trọng, có mối liên hệ chặt chẽ và tác động sâu sắc đến nhiều vấn đề khác (đặc biệt là vấn đề khai thác TNR trái phép) trong đời sống cộng đồng dân cư vùng nông thôn miền núi.

Ngoài việc học tập kinh nghiệm về di dân, TĐC ở nước ngoài, việc đúc rút kinh nghiệm trong việc di dân, TĐC từ chính các công trình thủy điện trước đây ở nước ta là rất cần thiết. Một kinh nghiệm đáng lưu tâm là từ thực tiễn và kết quả công tác tái định cư dự án thủy điện Hòa Bình.

Công tác di chuyển và TĐC người dân vùng lòng hồ sông Đà - Hòa Bình là một công việc rất quan trọng trong tiến trình xây dựng nhà máy thủy điện, lại được tiến hành trong những năm đất nước gặp nhiều khó khăn về kinh tế và ở một tỉnh miền núi có nền kinh tế chậm phát triển, cơ sở hạ tầng chưa phát triển, đời sống nhân dân đa số rất khó khăn. Đây là lần đầu tiên tỉnh Hòa Bình phải tổ chức di chuyển dân với số lượng lớn nên chưa có kinh nghiệm và gặp nhiều lúng túng. Địa bàn di chuyển và TĐC các hộ dân diễn ra trong phạm vi 25 xã, phường ven hồ và sát ven hồ cùng 18 điểm đón nhân dân di chuyển ra ngoài vùng. Phương thức di dân, TĐC được áp dụng là: chuyển đến xen ghép với các điểm dân cư cũ; tổ chức hình thành những điểm dân cư mới theo quy hoạch trong nội bộ tỉnh; di vén dân tại chỗ lên khu vực cao hơn (hình thức này chiếm gần 50% số hộ phải di chuyển).

Sau khi di chuyển và TĐC thực trạng đời sống của đồng bào đa số còn gặp nhiều khó khăn. Phần lớn hộ dân được di vén tại chỗ sống co cụm tạo ra nhiều chòm xóm rải rác dọc 2 bên ven hồ (khoảng 140 điểm), nhiều điểm mật độ dân quá đông, thiếu đất bằng để ở, không có đất sản xuất, địa hình chia cắt, độ dốc lớn đã làm hàng ngàn hộ dân lâm vào cảnh cực kỳ khó khăn, thu nhập đầu người năm 1990

- 1991 bình quân 70 kg lương thực/người, nạn đói diễn ra triền miên trên diện rộng, vấn đề nước sinh hoạt, phương hướng sản xuất cho dân ven hồ đặt ra hết sức nóng bỏng, do đói nghèo nên nạn phá rừng làm nương rẫy rất gay gắt và ngày càng phức tạp trực tiếp đe dọa an toàn của hồ thủy điện [1].

Trước tình hình đó, tỉnh Hòa Bình đã tổ chức điều tra cơ bản hiện trạng dân sinh vùng chuyển dân sông Đà và từ đó xác định nhiệm vụ cấp bách là giải quyết những vấn đề tồn động sau khi chuyển dân, tiếp tục hình thành và củng cố các điểm dân cư. Sau khi đã di chuyển, tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho phát triển sản xuất, ổn định đời sống nhân dân nhất là các xã ven hồ.

Những bài học rút ra từ công tác tổ chức và thực hiện di dân, tái định cư thủy điện Hòa Bình là:

- Làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến thông tin về công tác di dân, TĐC đối với quần chúng nhân dân để người dân tự giác chấp hành chủ trương của Đảng và Nhà nước.

- Chính sách đền bù, bồi thường thiệt hại cho dân phải hợp lý, dân chủ và công bằng, tránh nhiều tầng nấc trung gian, thủ tục phiền hà, ở công trình này việc xây dựng và duyệt chế độ đền bù cho dân không nhất quán, đơn giá rất thấp, thực hiện kéo dài nhiều đợt, thay đổi nhiều lần, giảm lòng tin đối với người dân.

- Quá trình di dân, TĐC phải gắn liền với quá trình tổ chức lại sản xuất để nơi dân đến có cuộc sống bằng hoặc cao hơn nơi ở cũ. Muốn vậy công tác quy hoạch phải đi trước và điều tra kỹ lưỡng, quy hoạch hoàn chỉnh về phương hướng sản xuất, xây dựng đồng bộ về cơ sở hạ tầng.

- Quy hoạch địa bàn đón dân phải tính đến việc phù hợp với phong tục tập quán của đồng bào. Ngoài việc đảm bảo điều kiện sinh hoạt và sản xuất của dân

phải xây dựng được chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đảm bảo ổn định đời sống lâu dài của người dân.

Tóm lại, từ thực tiễn di dân, TĐC công trình thủy điện Hòa Bình cho thấy di dân và quy hoạch phát triển, tổ chức lại sản xuất phải tiến hành đồng bộ, bảo đảm chính sách thỏa đáng, kịp thời trong đền bù, di dân và tái tạo sản xuất thì người dân TĐC mới sớm ổn định cuộc sống và phát triển tốt hơn nơi ở cũ.

1.3 Tình hình nghiên cứu tại khu TĐC do thủy điện A Lưới

Ngày 27 tháng 01 năm 2013, Nhóm tư vấn đánh giá tác động môi trường và xã hội (Working Group on Social and Environmental Impact Assessments, được viết tắt là SEIA) gồm 11 thành viên đã thực hiện chuyến thực địa tiền đánh giá ở huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế. Mục tiêu của nhóm là nghiên cứu sơ bộ các vấn đề về phát triển kinh tế, xã hội và môi trường dưới tác động của thủy điện A Lưới ở một số vùng được chọn lựa của huyện, làm cơ sở cho việc thiết lập chương trình nghiên cứu dài hạn trong năm 2013 [5].

Ngoài những tác động tích cực về kinh tế mà thủy điện A Lưới mang lại cho đất nước thì những tác động về mặt môi trường và xã hội đối với đời sống người dân địa phương là không nhỏ. Thủy điện A Lưới, theo báo cáo của huyện, có ảnh hưởng trên 1.890 ha thuộc phạm vi 7 xã trên toàn huyện với 1.381 hộ dân. Về đời sống người dân địa phương, hầu hết là đồng bào dân tộc thiểu số, 205 hộ bị thu hồi đất hoàn toàn, trong đó 106 hộ được đưa về tái định cư ở thôn Cân Tôm, còn 99 hộ tự tìm nơi ở mới.

Thứ nhất, Dự án Thủy điện A lưới có vấn đề từ khía cạnh thể chế và quy hoạch, triển khai quy hoạch và sự tham gia của các bên liên quan trong việc thông tin và đáp ứng các nhu cầu thực tiễn xảy ra. Cụ thể, việc quy hoạch đất sản xuất lúa 2 vụ cho người dân nằm trên vùng đất bồi cuội sỏi với diện tích gần hơn 5 ha. Tầng đất mặt chỉ chưa đến 5 cm và đầy cuội sỏi lớn. Không hiểu người dân sẽ bằng cách nào để cấy lúa 2 vụ. Thậm chí cây sim mua cũng khó sống nổi trên vùng đất khô cằn và sỏi đá này. Nhiều người dân đã được nhận đất ở đây để làm lúa nhưng không thể cải tạo nổi nên đành để đất trống cho cỏ dại mọc và các công trình thủy lợi cũng

đành bỏ hoang. Thêm vào đó, mặt bằng bàn giao cho người dân để làm đất ở và canh tác không được san lấp đúng quy định. Khu vực tái định cư chỉ được san lấp cho khu vực làm nền nhà ở khoảng 150m2/1000m2 đất ở và vườn. Các khu đồi nham nhở cùng với các hố sâu không được san lấp gây khó khăn cho bà con trong việc phát triển vườn nhà. Đó chưa kể đến sự nguy hiểm cho các em nhỏ vào mùa mưa khi có rất nhiều các hố sâu đầy nước khi các em đi chơi ở vườn nhà và cha mẹ các phải đi làm nương rẫy xa.

Thứ hai là dự án này chưa đủ điều kiện để tham chiếu đến Chủ trương của Nhà nước là đảm bảo cuộc sống của người dân TĐC tốt hơn hoặc bằng nơi ở cũ. Việc đào tạo và tạo việc làm cho bà con là một trong những vấn đề nan giải. Diện tích đất vườn thì có nhưng công tác khuyến nông và phát triển sinh kế chưa được đầu tư nhiều trong khi đất thì xấu có nhiều đá lẫn và đã bị thoái hóa. Nhiều người dân không có việc làm và thiếu đất sản xuất đã tìm cách quay trở về quê cũ để tiếp tục canh tác trên vùng đất bán ngập nước hoặc tìm cách phá rừng làm nương rẫy để có kế sinh nhai.

Vấn đề thứ ba là thiếu sự kết nối giữa tái định cư, dân tộc và phát triển. Đây chính là cơ sở ban đầu mà nhóm SEIA xem xét để đánh giá các tác động trong khung thời gian dài hạn và các nguyên tắc phát triển bền vững.

CHƯƠNG 2: ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN, PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1 Địa điểm và thời gian nghiên cứu

2.1.1 Địa điểm nghiên cứu

Luận văn được thực hiện tại thôn Cân Tôm 2, xã Hồng Thượng, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đây là địa điểm được chọn để xây dựng khu TĐC cho các hộ gia đình bị ảnh hưởng bởi thủy điện A Lưới. Người dân ở khu TĐC Cân Tôm 2 được cho là chịu ảnh hưởng nhiều nhất của việc xây dựng thủy điện A Lưới và sinh kế người dân phụ thuộc nhiều vào TNR.

2.1.1.1 Đặc điểm tự nhiên

* Vị trí địa lý và địa hình

Thôn Cân Tôm 2 thuộc xã Hồng Thượng, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế có những đặc điểm tự nhiên – xã hội tương tự xã Hồng Thượng. Thôn Cân Tôm 2 nằm về phía Bắc của xã Hồng Thượng. Toạ độ địa lý của xã Hồng Thượng được xác định ở 16 độ 2932 vĩ Bắc, 107 độ - 107 độ 30’33 kinh Đông. Ranh giới hành chính của xã được xác định như sau:

- Phía Bắc giáp xã Sơn Thuỷ, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế;

- Phía Nam giáp xã Hương Phong, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế;

- Phía Tây giáp nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào;

- Phía Đông giáp xã Phú Vinh, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Hồng Thượng nằm tiếp giáp với 3 xã: Sơn Thuỷ, Hương Phong, Phú Vinh, có đường Quốc lộ Hồ Chí Minh đi qua, điểm đầu đường Quốc lộ 49B A Lưới đi Huế, gần chợ Bốt Đỏ thuộc xã Phú Vinh, phía Tây địa bàn của xã có lòng hồ thuỷ điện A Lưới và rừng tự nhiên, do đó rất thuận lợi trong việc giao lưu phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội với bên ngoài, nhất là tuyến đường Hồ Chí Minh đi qua và điểm đầu đường Quốc lộ 49B A Lưới đi Huế.


Hình vẽ 2 1 Sơ đồ xã Hồng Thượng Nhìn chung địa hình xã bị chia cắt bởi 1

Hình vẽ 2.1: Sơ đồ xã Hồng Thượng

Nhìn chung, địa hình xã bị chia cắt bởi các đồi núi và sông, suối tạo nên các gò đồi tương đối màu mỡ có độ dốc thoai thoải thuận lợi cho canh tác cây nông nghiệp, địa hình này cũng thuận lợi cho việc phát triển thuỷ điện và nước tự chảy, đất bằng chủ yếu khu vực phía Đông địa bàn theo dọc đường Hồ Chí Minh và nơi đây cũng là nơi dân cư sinh sống tập trung nhất. Diện tích tự nhiên 4.030,9 ha, chiếm 3,26% diện tích tự nhiên của huyện. Địa bàn xã hiện có 7 thôn và đang chuẩn bị thành lập 2 thôn mới (A Đên và Thượng Thái Sơn) thuộc khu TĐC Dự án thuỷ điện A Lưới. Trong đó: có 8 thôn nông nghiệp gồm: Kỳ Ré, Hợp Thượng, Cân Sâm, Cân Tôm, Cân Te, A Sáp và 2 thôn chuẩn bị thành lập (A Đên và Thượng Thái Sơn). Khu TĐC Cân Tôm 2 có địa hình đồi núi với độ dốc tương đối lớn hơn so với các khu vực khác trong xã. Đất bị rửa trôi, bạc màu và nhiều đá sỏi nên gây nhiều bất lợi cho sản xuất nông nghiệp của người dân.

* Khí hậu

Thôn Cân Tôm 2 có đặc điểm khí hậu tương tự như xã Hồng Thượng nên có khí hậu nhiệt đới điển hình của miền Nam và có mùa Đông tương đối lạnh của miền Bắc. Với 2 mùa rõ rệt, mùa nắng từ tháng 4 đến tháng 9 và mùa mưa từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau.

Nhiệt độ trung bình năm của xã là 21,50C. Từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau nhiệt độ xấp xỉ 190C; tháng 12 có nhiệt độ thấp nhất là 17,20C; tháng 6,7 có nhiệt độ cao nhất là 250C.

Lượng mưa bình quân hàng năm của xã Hồng Thượng là 3.242 mm, số ngày mưa trong năm là 218 ngày. Đặc trưng ở đây là khí hậu có tính chất chuyển tiếp giữa khí hậu Đông và Tây Trường Sơn nên mùa mưa thường đến sớm và kết thúc muộn. Độ ẩm tương đối cao, trung bình năm là 87%. Tháng có độ ẩm cao nhất là các tháng 10,11,12 với chỉ số 92% và tháng có độ ẩm nhỏ nhất là tháng 7 với 79%.

* Thủy văn

Hệ thống sông, suối, khe của xã Hồng Thượng có mật độ khá lớn, phân bố đều trên toàn xã. Trong đó, sông A Sáp có trữ lượng nước lớn thuận tiện cho việc phục vụ SXNN cũng như cho sinh hoạt các hộ gia đình. Người dân tại khu TĐC Cân Tôm 2 chủ yếu sử dụng nguồn nước này cho sinh hoạt và sản xuất, tuy nhiên chưa có đường dẫn nước hoàn chỉnh mà người dân thường sử dụng các vật dụng thô sơ và sức người để lấy nước và đi bộ khá xa. Bên cạnh đó trên địa bàn xã còn có các hồ nước lớn là: A Râng, A Co, Căn Cưng.

* Hiện trạng sử dụng đất tại xã Hồng Thượng và thôn Cân Tôm 2

Theo số liệu kiểm kê đất đai năm 2013 thì tổng diện tích tự nhiên của xã Hồng Thượng là: 4.028,75 ha. Trong đó đất nông nghiệp và lâm nghiệp có 3.132,09 ha chiếm 77,52% [16]. Cơ cấu đất nông nghiệp phân chia theo bảng 2.1 dưới đây:

Bảng 2.1: Cơ cấu sử dụng đất của xã Hồng Thượng



TT


CHỈ TIÊU

DIỆN TÍCH (HA)

CƠ CẤU

(%)


Tổng diện tích đất tự nhiên

4.028,75

100,00


Đất nông nghiệp

3.132,09

77,52

1

Đất sản xuất nông nghiệp

349,59

8,67

1.1

Đất trồng cây hàng năm

82,92

2,05

1.1.1

Đất trồng lúa

34,92

0,86

1.1.2

Đất trồng cây hàng năm khác

48,00

1,19

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 106 trang tài liệu này.


1.2

Đất trồng cây lâu năm

266,67

4,57

2

Đất lâm nghiệp

2.768,40

68,71

2.1

Đất rừng sản xuất

1.937,00

48,07

2.2

Đất rừng phòng hộ

831,40

20,64

3

Đất nuôi trồng thủy sản

14,10

0,14

Nguồn: Ủy ban nhân dân xã Hồng Thượng, 2013”. Với cơ cấu phân chia đất như trên có thể nhận thấy rằng: người dân xã Hồng Thượng có sinh kế chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp và lâm nghiệp. Cụ thể, đất sản xuất nông nghiệp chiếm 8,67% với khoảng 349,59 ha. Trong đó, đất trồng cây hàng năm có 82,92 ha chuyên trồng lúa và các loại cây ngắn ngày (như khoai, lạc, sắn đậu, rau màu…). Diện tích đất trồng lúa chiếm 0,86% và đất trồng cây hàng năm chiếm 1,19%. Đất trồng cây lâu năm với các loại cây ăn quả (xoài, mít, na, chuối…) và cây công nghiệp (cà phê) cũng chiếm một diện tích tương đối lớn là

266,67 ha.

Đối với đất lâm nghiệp, toàn xã có 2.768,40 ha chiếm đến 68,71% tổng diện tích đất của xã. Diện tích lớn như vây đã giúp người dân phát triển các loại cây lâm nghiệp như tràm, keo lai, bạch đàn. Người dân sống ở xã chủ yếu là dân tộc Pa Cô, Tà Ôi… và sinh kế của họ gắn liền với khai thác các loại lâm sản như củi, rau rừng, các cây thuốc, gỗ, lá nón… Vì vậy, diện tích đất rừng đóng vai trò rất quan trọng đối với người dân và cũng như môi trường ở khu vực này.

Cơ cấu sử dụng đất tại thôn Cân Tôm 2 được phân chia như sau: Tổng diện tích đất tự nhiên là 209,9 ha. Trong đó: diện tích đất ở là 40,3 ha; diện tích đất nông nghiệp là 35,3 ha; diện tích đất lâm nghiệp là 85,2 ha còn lại là diện tích sông suối, ao hồ và đất khác là 49,1 ha.

2.1.1.2 Đặc điểm kinh tế - xã hội của địa bàn nghiên cứu

Các đặc điểm kinh tế - xã hội của xã Hồng Thượng. Theo thống kê năm 2013, toàn xã có tổng số hộ: 500 hộ với 2.613 khẩu. Lao động trong độ tuổi khoảng 1.176 người, chiếm 45,00%.

Xem tất cả 106 trang.

Ngày đăng: 17/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí