Định, bị Tây Sơn bắt. Nhưng ông hết dạ trung thành với chúa Nguyễn, tìm cách trốn về Nam.
Hình 3.3: Lăng ông Tiền Quân Thống Chế Điều Bát
Năm Gia Long thứ nhất (1802), ông được thăng Cai Cơ, trấn giữ đồn Trà Ôn (thuộc Trấn Giang) kiêm quản phủ Trà Vinh và Măng Thít (thuộc Vĩnh Trấn). Ông có công giúp nhà Nguyễn dẹp loạn ở biên giới Tây Nam. Năm Gia Long thứ bảy (1808) và năm Gia Long thứ mười (1811), hai lần, ông được triệu về kinh để nhận ban thưởng và được thăng Thống chế, tước Dung Ngọc Hầu. Công đức lớn của ông là giúp dân vùng Trà Ôn, Trà Vinh, Măng Thít khai khẩn đất hoang, thành lập xóm làng. Ngoài ra, năm 1819, ông được Thoại Ngọc Hầu phân công đốc thúc dân phu đào kênh Vĩnh Tế. Do lao tâm, lao lực, ông bị bệnh, mất đầu năm Canh Thìn (1820). Triều đình cử người đến ban cấp, điếu phúng. Ông được truy tặng Tiền quân Thống chế, được tống táng theo nghi lễ. Sau đó, triều đình còn cấp mộ phu quét dọn mồ mả, từ đường. Theo nhiều tài liệu lịch sử, vào mùa hè năm Canh Thìn (1820), nước ta bị một trận dịch lớn chết hàng vạn người. Đầu tiên, trận dịch bắt đầu từ
Trấn Tây, lan qua Nam Bộ rồi lan ra tận Thừa Thiên. Trong lúc nguy ngập này, ông được người dân địa phương xem là một vị thần linh bảo hộ. Ông được người dân địa phương xem là một vị Tiền hiền (người Hoa xem ông như ông Bổn ở địa phương), được thờ cúng dưới dạng “Báo hổ tư nguyên”. Hiện nay, Lăng và mộ phần quan Thống chế điều bát cùng phu nhân ở tại giồng Thanh Bạch, ấp Mỹ Hòa, xã Thiện Mỹ, cách thị trấn Trà Ôn khoảng hai cây số. Toàn khu vực này ở trên khu đất trống trải, xung quanh có nhiều cây cao bóng mát và hoa quả tươi đẹp. Khu miếu thờ có ba ngôi : chính điện, võ ca và nhà khách. Tất cả các công trình kiến trúc đều làm bằng gỗ, lợp ngói, nền gạch, vách gạch. Trong Lăng thờ vợ chồng Thống chế điều bát và các danh nhân như Tả quân Lê Văn Duyệt, Bình Tây Tướng quânTrương Định, Bình Tây Phó tướng Nguyễn An (Phó tướng Trương Định, sau khi thất bại ở Gò Công, trở về tiếp tục nổi dậy và hi sinh tại Trà Ôn). Anh hùng Nguyễn Trung Trực, quan Thống chế điều bát Nguyễn Văn Tồn được nhà Nguyễn phong Trung đẳng Thần vào năm 1944. Phần mộ Thống chế điều bát Nguyễn Văn Tồn và phu nhân làm theo kiểu song hồn, nằm phía sau Lăng. Xung quanh mộ có tường hoa, có bình phong, trụ liễu… trang trí hình lá, giao long và có cặp kỳ lân đứng hầu. Trên rặng liễu có câu đối ngắn, thể hiện được đức độ người đã mất:
Hàng năm, tại Lăng Thống chế điều bát Nguyễn Văn Tồn có các ngày lễ :
- Giỗ Tiền quân phu nhân : 16 và 17 tháng hai âm lịch.
- Giỗ Phó soái Nguyễn An, giỗ Tiền hiền và Hậu hiền : 20 tháng 12 âm lịch.
Có thể bạn quan tâm!
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Sự Phát Triển Du Lịch Sinh Thái
- Phương Pháp Phân Tích Cho Từng Mục Tiêu
- Tiềm Năng Và Thực Trạng Du Lịch Sinh Thái Vĩnh Long
- Hiệu Quả Kinh Doanh Du Lịch Của Vĩnh Long (2010 – 2014)
- Phương Tiện Sử Dụng Cho Chuyến Đi Và Nguồn Thông Tin Về Du Lịch Vĩnh Long
- Kết Quả Phân Tích Nhân Tố Thang Đo Sự Hài Lòng.
Xem toàn bộ 130 trang tài liệu này.
Nhưng ngày lễ quan trọng nhất là ngày giỗ quan Thống chế điều bát Nguyễn Văn Tồn vào ngày mồng ba và mồng bốn tháng Giêng âm lịch. Trong các ngày này, hàng ngàn người Việt, Hoa, Khmer ở vùng Trà Ôn, Cầu Kè,Trà Vinh, Sóc Trăng… về tham dự. Lễ giỗ quan Thống chế mang ý nghĩa là lễ cầu phước vào những ngày đầu xuân. Ngoài ra, người dân đến lễ bái còn có ý nghĩa uống nước nhớ nguồn. Do đó, tuy là lễ giỗ, nhưng cũng có đầy đủ nghi tiết : Túc yết, Chánh tế, tế Tiền hiền, Hậu hiền, xây chầu, Đại bội và Hát bội. Ngoài ra, vì đây là những ngày đầu xuân nên bà con người Hoa thường tổ chức múa lân, bà con người Khmer trình diễn nhạc
ngũ âm hoặc múa hát theo phong cách của họ. Quan Thống chế điều bát Nguyễn Văn Tồn trở thành vị phúc thần của ba dân tộc Việt, Hoa và Khmer tại Trà Ôn.
Bộ Văn hóa Thông tin đã ra quyết định xếp hạng Lăng Ông là di tích lịch sử văn hóa ngày 13 tháng 2 năm 1996. (Quyết định số 310-QĐ ngày 13/2/1996).
Văn Thánh Miếu:
Hình 3.4: Văn thánh miếu Vĩnh Long
Văn Thánh Miếu Vĩnh Long thờ đức Khổng Tử tại làng Long Hồ, nay thuộc phường 4, TP Vĩnh Long.Đó là một trong ba Văn Thánh Miếu được xây dựng đầu tiên ở Nam bộ: Văn Thánh Miếu ở Biên Hòa, Gia Định và Vĩnh Long. Văn Thánh Miếu Vĩnh Long xây dựng vào năm 1862. Các sĩ phu ở Biên Hòa, Gia
Định, Định Tường không chịu làm tay sai cho Pháp và để giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc nên họ đã rời khỏi Gia Định, Biên Hòa để về Vĩnh Long tỵ địa. Họ đã xây dựng Văn Thánh Miếu để làm nơi ôn tập cho các sĩ tử và cũng là nơi để hoạt động văn hóa, đề cao các tiền hiền, giáo dục lòng yêu nước cho nhân dân. Công trình nổi tiếng này được xây dựng từ năm 1864 và hoàn thành cuối năm 1866 với sự
chủ trì của Kinh lược đại thần Phan Thanh Giản, Đề học Nguyễn Thông, sự đóng góp của nhiều đại thần cựu trào cùng sĩ phu và nhân dân ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Từ đó đến nay, Văn Thánh Miếu Vĩnh Long được trùng tu, tôn tạo vào các năm 1872, 1903, 1914, 1933, 1963 và 1994. Tuy đã nhiều lần được trùng tu, tôn tạo nhưng Văn Thánh Miếu Vĩnh Long vẫn giữ được vẻ đẹp tôn quý, thanh cao. Cổng Tam quan của văn Thánh Miếu uy nghi trên đường Trần Phú bên dòng sông yên tĩnh.
Chùa Tiên Châu
Theo Đại Nam nhất thống chí, chùa Tiên Châu do Hoà thượng Huỳnh Đức Hội “khai sơn”. Hòa thượng Đức Hội có pháp danh Tánh Minh, đời thứ 39 phái Lâm Tế, dòng Liễu Quán. Qua pháp danh, chúng ta biết Hoà thượng Đức Hội là đệ tử của Hòa thượng Đạo Thành, người đã khai sáng chùa Khánh Long (Biên Hòa) và chùa Hội Sơn (Thủ Đức). Do đó, có thể suy luận, Hoà thượng Đức Hội là người vùng Biên Hòa - Gia Định. Ngài là vị chủ trì đời thứ ba của chùa Hội Sơn và đến xây dựng chùa Tiên Châu. Cũng theo Đại Nam nhất thống chí, chùa Tiên Châu ở cù lao sông Tiền thuộc làng Bình Lương và An Thành (nay là ấp Bình Lương, xã An Bình huyện Long Hồ, cách thành phố Vĩnh Long khoảng một cây số, nhưng phải qua sông Cổ Chiên). Tên chính thức của chùa Tiên Châu là Di Đà Tự (Tiên Châu Di Đà Tự) vì chùa này thờ phật Di Đà, giáo chủ cõi Tây Phương cực lạc. Mãi đến cuốI thế kỷ thứ XIX, các vị sư ở chùa Vĩnh Tràng (Mỹ Tho) qua hành đạo. Giai đoạn này, chùa Di Đà đã bị xuống cấp nên tín đồ Phật tử đã trùng tu tái thiết lại ngôi chùa vào năm Kỷ Hợi (1899). Từ đó, ngôi chùa có tên chính thức là Tiên Châu Tự, còn danh hiệu Tiên Châu Di Đà tự gần như đi vào dĩ vãng. Chùa Tiên Châu hiện giữ được quy mô năm Kỷ Hợi (1899), gồm bốn nóc : tiền đường, chánh điện, trung đường và hậu tổ. Các khu vực vừa kể thường làm theo kiểu tứ trụ, được nớI rộng theo chiều ngang dọc nhờ các kèo đấm kèo quyết. Bộ giàn trò bằng gỗ quý, mái ngói âm dương, xung quanh đóng vách bổ kho.
Nội điện chùa Tiên Châu được trang trí đẹp đẽ. Giữa tứ trụ là một khánh thờ, bên trong tôn trí một pho tượng Phật Di Đà bằng đất sét khổng lồ. Hai bên khánh
thờ có câu đối sơn mài. Trong một thế kỷ nay, chùa Tiên Châu được sửa đổi nhiều lần mà lần sửa đổi quan trọng nhất là xây dựng mặt tiền vào năm 1960 như chúng ta thấy hiện nay. Lần xây dựng này dùng toàn vật liệu hiện đại. Giữa là một căn nhà lầu có năm ngọn tháp trong tôn trí tượng Phật Thích Ca, nhưng phía trước có ba chữ “Tiên Châu Tự” và một câu đối ca tụng. Hai gian bên làm theo kiểu cổ lầu, trong tôn trí tượng Thiện Hữu và Ác Hữu, cũng có hoành phi, câu đối ca tụng.
Chùa Tiên Châu được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận Di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1994 (Quyết định số 3211-QĐ, ngày 12/12/1994).
Không gian Bảo tàng nông nghiệp lúa
Quyết định số 194/QĐ-BVHTTDL ngày 23 tháng 01 năm 2015 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Về việc phê duyệt Đề án “Xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù vùng Đồng bằng sông Cửu Long”, trong đó có xây dựng không gian bảo tàng lúa ĐBSCL tại Vĩnh Long và trung tâm là Bảo tàng nông nghiệp được xây dựng tại thị trấn Vũng Liêm. Đây sẽ là không gian tái hiện hoạt động sản xuất lúa nước của người dân Nam Bộ và cũng là nơi lưu giữ những mẫu vật về cây lúa nước đồng bằng Nam Bộ, các tiến bộ khoa học kỹ thuật nông nghiệp trong gieo trồng và phát triển cây lương thực của Nam Bộ nói riêng và Việt Nam nói chung. Điều này chắc chắn sẽ là yếu tố thu hút khách du lịch, nhất là với các khách có mục đích tìm hiểu khoa học, sinh thái nông nghiệp.
Lễ hội
Các lễ hội có thể gắn kết với hoạt động du lịch như Lễ Tế Xuân đinh và Thu đinh tại Văn Thánh Miếu (ngày đinh đầu tháng 2 và ngày đinh cuối tháng 8); Lễ hội Lăng ông Tiền quân Thống chế Điều bát Nguyễn Văn Tồn là ngày giỗ Ông vào ngày Mùng 3 và Mùng 4 tháng giêng âm lịch hàng năm; lễ hội Xuân tế cầu an Công Thần Miếu, lễ cầu nguyện hòa bình ở Ngọc Sơn Quang, . . .
Nghề và làng nghề truyền thống
Hiện tại, trên địa bàn tỉnh có 25 làng nghề và nghề truyền thống đã được công nhận như đan lõi lát; đan thảm lục bình; làng nghề làm bánh tráng giấy, làng nghề gốm… Các sản phẩm làng nghề chủ yếu được sản xuất bằng phương pháp thủ công,
rất phù hợp cho việc gắn kết với hoạt động du lịch. Ngoài ra, còn có các nghề thủ công đang được du khách quan tâm như chầm lá, lò rèn, đát đát bằng mây tre, . .
Văn học - nghệ thuật
Đờn ca tài tử là một trong những loại hình nghệ thuật đã tạo nên sản phẩm du lịch đã được nhiều du khách quan tâm. Ngoài ra, phong tục tập quán của người dân miệt vườn, sông nước như đám cưới trên sông, chợ trên sông, ngủ đêm ngắm trăng trên sông, các làng chày ven sông, các loại hình giải trí dân gian như diễn tuồng, nghệ thuật hát bội, thả diều, đi cầu thăng bằng, đập nồi và nhiều trò chơi dân dã khác tại các điểm du lịch cũng là những yếu tố thu hút, hấp dẫn khách du lịch.
3.1.4.3. Các điểm du lịch chủ yếu
Các điểm du lịch trên địa bàn 4 xã cù lao thuộc huyện Long Hồ đã hình thành và hoạt động từ rất lâu và đã được nhiều du khách biết đến. Các điểm du lịch đã được công nhận đạt chuẩn phục vụ du khách. Một số điểm du lịch chính như điểm du lịch Vinh Sang và Mêkong Đồng Phú, đây là hai điểm chủ yếu phục vụ khách nội địa tham quan, dã ngoại, du lịch cuối tuần và có thể làm điểm nhấn để nối tuyến du lịch liên tỉnh Vĩnh Long – Đồng Tháp. Một số Homestay đạt chuẩn như Ba Lình, Phương Thảo, Út Trinh, Ba Hùng, Mười Hưởng… nằm trên tuyến du lịch Vĩnh Long – Cái Bè. Đây là những điểm thu hút một lượng lớn du khách quốc tế và có thể làm điểm nhấn để nhân rộng phát triển mô hình homestay trên địa bàn toàn tỉnh.
3.2. Cơ sở vật chất phục vụ du lịch
3.2.1. Hạ tầng giao thông
3.2.1.1. Đường bộ
Có trục Quốc lộ 1A, Quốc lộ 53, Quốc lộ 54, Quốc lộ 80 chạy ngang qua nối liền với các tỉnh như Tiền Giang, Trà Vinh, Đồng Tháp, TP. Cần Thơ và Quốc lộ 57 nối liền với tỉnh Bến Tre. Với hệ thống giao thông đường bộ như trên, Vĩnh Long rất thuận lợi trong liên kết, nối tuyến với các địa phương trong vùng.
3.2.1.2. Đường thủy
Có hai nhánh sông chính bao trọn lãnh thổ Vĩnh Long là sông Tiền và sông Hậu, cùng với hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt và phân bố đều trên địa bàn tỉnh, nhất là tại các cù lao trên tuyến sông Tiền và sông Hậu. Ngoài ra, còn có sông Mang Thít nối liền giữa sông Tiền và sông Hậu tạo thuận lợi cho việc phát triển tuyến du lịch đường sông và du lịch sinh thái sông nước miệt vườn.
Tuy nhiên, thời gian qua tỉnh chưa chú trọng trong việc đầu tư cơ sở vật chất và hạ tầng giao thông phục vụ cho việc khai thác sản phẩm du lịch đường sông, cụ thể như chưa quan tâm đầu tư xây dựng bến tàu khách du lịch đạt chuẩn, chưa có kế hoạch nạo vét kênh Mương Lộ, sông Cái Muối để thông luồng, từ đó ảnh hưởng đến việc vận chuyển của các phương tiện thủy nội địa đến các điểm du lịch.
3.2.2. Hệ thống cơ sở lưu trú
Hiện tại trên địa bàn tỉnh có 81 cơ sở lưu trú du lịch. Trong đó có 1 khách sạn hạng 3 sao; 5 khách sạn hạng 2 sao, 32 khách sạn hạng 1 sao, số còn lại đạt chuẩn và với hơn 1000 phòng đạt chuẩn phục vụ khách du lịch. Ngoài ra, còn có trên 200 cơ sở lưu trú loại hình “Nhà trọ” cũng tham gia phục vụ khách du lịch. Với số liệu thống kê như trên, cơ sở lưu trú du lịch đạt hạng cao nhất là 3 sao (1 cơ sở). Vì vậy, hạn chế trong việc thu hút khách có chi tiêu cao và hạn chế trong việc đăng cai tổ chức các sự kiện lớn cấp vùng và cấp quốc gia.
3.2.3. Dịch vụ ăn uống, vui chơi giải trí, thể thao
3.2.3.1. Về ăn uống
Ngoài các cơ sở ăn uống thuộc hệ thống cơ sở lưu trú du lịch đã được công nhận hạng, còn có nhiều cơ sở ăn uống khác cũng có thể tham gia vào phục vụ khách du lịch. Cụ thể, trên địa bàn tỉnh hiện có trên 10 nhà hàng đạt chuẩn phục vụ khách du lịch như nhà hàng Thiên Tân, Hương Sen, Ẩm Thực Phố, Nhà hàng Sông Tiền, quán ăn Tân Tân... Ngoài ra, còn có các quán ăn chay đều có thể tham gia phục vụ du khách có nhu cầu ăn kiêng trong chuyến đi.
Các sơ sở ăn uống trên địa bàn tỉnh có thể phục vụ một lượng lớn khách đến Vĩnh Long trong những sự kiện cấp vùng và cấp quốc gia. Tuy nhiên, hầu hết các
cơ sở lớn, đạt chuẩn đều tập trung tại TP. Vĩnh Long. Đây cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến việc định hướng phát triển du lịch đều giữa các địa phương.
3.2.3.2. Về dịch vụ vui chơi giải trí, thể thao
Các tiện nghi thể thao, vui chơi giải trí bao gồm bể bơi, sân tennis, bóng đá mini, thể dục thẩm mỹ, võ thuật tập trung tại trung tâm văn hóa, trung tâm thể dục thể thao, trung tâm hoạt động thanh thiếu niên; vũ trường, bar, câu lạc bộ bi-da, các cơ sở massage tập trung nhiều ở trung tâm thành phố Vĩnh Long. Các dịch vụ trên đã góp phần tạo nên sự hấp dẫn, thu hút du khách và kéo dài thời gian lưu trú, tăng chi tiêu của khách du lịch.
3.2.4. Phương tiện giao thông
Phương tiện đường đến với Vĩnh Long chủ yếu là đường bộ và đường thủy. Hiện tại, tham gia vận chuyển khách du lịch có trên 100 tàu thủy nội địa từ 9-50 chỗ ngồi; có 6 hãng xe ô tô chất lượng cao, hai hãng taxi và nhiều hộ kinh doanh cũng tham gia kinh doanh vận chuyển khách du lịch;
Với số lượng rất lớn phương tiện vận chuyển tham gia phục vụ du khách như thống kê trên, nhưng chưa có bến tàu du lịch đạt chuẩn và chưa có bến đỗ cho xe ô tô chuyên vận chuyển khách du lịch và hầu hết ô tô chưa đăng ký biển hiệu đạt chuẩn phục vụ khách du lịch.
Nhiều đại lý cung cấp vé máy bay trong nước và quốc tế, cùng với dịch vụ cung cấp vé tàu lửa, tàu thủy và ô tô vận chuyển Bắc Nam hoạt động trên địa bàn tỉnh, tạo điều kiện cho du khách có nhiều lựa chọn phương tiện vận chuyển cho chuyến đi.
3.2.5. Điểm tham quan du lịch
Có 28 điểm du lịch vườn vừa phục vụ ăn uống, tham quan và lưu trú qua đêm. Ngoài ra, còn có trên 10 điểm vườn trái cây tham gia phục vụ khách du lịch ăn uống và tham quan trong ngày. Các di tích và làng nghề cũng thu hút một lượng lớn khách tham quan (cả khách quốc tế và khách nội địa).