2. Phương pháp phân tích hiệu quả chi phí tiếp cận phi tham số
Phương pháp bao dữ liệu DEA là một kỹ thuật lập trình tuyến tính để kiểm tra một đơn vị (DMU hoặc ngân hàng trong nghiên cứu này) hoạt động như thế nào so sánh với các ngân hàng khác trong mẫu. Kỹ thuật này tạo ra một đường biên được thiết lập bởi các ngân hàng hiệu quả và so sánh nó với các ngân hàng kém hiệu quả. Hơn nữa, hiệu quả của các ngân hàng tiến từ 0 đến 1, với ngân hàng hoàn toàn hiệu quả có kết quả là 1. Phương pháp này cho phép xác định hiệu quả tương đối của các đơn vị hoạt động trong hệ thống phức tạp.
Một mô hình cơ bản của DEA được thể hiện tối đa hóa hiệu quả, với trọng lượng đầu ra u và đầu vào trọng lượng v, cho i đầu vào x và j kết quả đầu ra y. Nếu chúng ta thiết lập tổng trọng lượng đầu vào là 1, ký hiệu toán học, con số này cho chúng ta một yêu cầu để giải quyết bài toán:
vxi =1
với điều kiện:
uyj - vxi < 0
u, v > 0
maxuv (uyj) (1.11)
3. Tổng quan các nghiên cứu về đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn lực của các ngân hàng thương mại
Trên thế giới, DEA thường được áp dụng để đánh giá các NHTM. Miller và Noulas (1996) ứng dụng phương pháp phân tích DEA để tính hiệu quả của 201 ngân hàng lớn của Mỹ (các ngân hàng có tài sản có trên 1 tỷ đôla Mỹ) thời kỳ 1984-1990. Bằng việc sử dụng 4 đầu vào: Tổng tiền gửi thanh toán, tổng tiền gửi có kỳ hạn, tổng chi lãi và tổng chi phi lãi và 6 đầu ra: cho vay công nghiệp và cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng, cho vay bất động sản, đầu tư chứng khoán, thu lãi, thu phi lãi. Kết quả cho thấy phi hiệu quả trung bình (bao gồm phi hiệu quả thuần và phi hiệu quả quy mô) của 201 ngân hàng khoảng trên 5%. Đồng thời tác giả kết luận đa số các ngân hàng có quy mô
quá lớn và đang rơi vào vùng hiệu quả giảm dần theo quy mô. Ferrier và Lovel (1990) sử dụng cả phương pháp phân tích biên ngẫu nhiên (SFA) và phương pháp phân tích bao số liệu (DEA) để đánh giá hiệu quả của 575 ngân hàng hoạt động trong năm 1984, tác giả đã sử dụng 3 đầu vào (tổng số nhân viên; chi cho nhân viên, chi về trang thiết bị máy móc và chi mua nguyên, vật liệu) và 5 đầu ra (số lượng tài khoản tiền gửi không kỳ hạn, số lượng các món cho vay bất động sản, số lượng các món cho vay trả góp và số lượng các các món cho vay công nghiệp). Theo phương pháp DEA thì phi hiệu quả kỹ thuật của các ngân hàng khoảng 21,6%, còn theo phương pháp SFAthì phi hiệu quả kỹ thuật là 26.4%.
Sherman và Gold (1985) đã nghiên cứu hiệu quả toàn bộ của 14 chi nhánh ngân hàng ở Mỹ với kết quả, 6 trong số đó không hoạt động hiệu quả so với các chi nhánh khác. Một nghiên cứu khác phân tích hiệu quả hoạt động của 67 chi nhánh ngân hàng New Zealand năm 2003 với kết quả hiệu quả kỹ thuật đạt 0.912. Để nghiên cứu ảnh hưởng của sự thâm nhập của các ngân hàng nước ngoài đến hiệu quả kỹ thuật của ngân hàng nội địa, Abraham Saka (2010) đã sử dụng phương pháp DEA để phân tích 23 ngân hàng Ghana. Kết quả cho thấy hiệu quả kỹ thuật của ngân hàng nội địa biến động trong giai đoạn nghiên cứu.
Tại châu Á, Fukuyama (1995) ) đã tiến hành đo lường hiệu quả của 143 ngân hàng Nhật Bản trong năm 1990. Kết quả của nghiên cứu này là hiệu quả kỹ thuật thuần trung bình đạt 0.86 và hiệu quả quy mô đạt 0.9. Điều này có ý nghĩa việc thiếu hiệu quả toàn bộ là do hiệu quả kỹ thuật thuần thấp. Ngoài ra, Xiaoqing và Shelagh (2005) đã thực hiện nghiên cứu về hệ thống ngân hàng Trung Quốc bằng DEA với 14 ngân hàng trong giai đoạn 1985-2002, kết quả cho thấy ngân hàng thương mại cổ phần hoạt động hiệu quả hơn ngân hàng thương mại nhà nước và hiệu quả kỹ thuật trung bình đạt 50-60%.
Tại Việt Nam, Nguyễn Việt Hùng (2007) tiến hành nghiên cứu 32 NHTM giai đoạn 2001-2005. Kết quả cho thấy ngân hàng Việt Nam hoạt động chưa hiệu quả cả về kỹ
thuật lẫn phân bổ nguồn lực, trong đó việc thiếu hiệu quả kỹ thuật là đáng kể hơn. Deahoon và Ha Thu Vu (2008) phân tích 56 ngân hàng hoạt động tại Việt Nam giai đoạn 2000-2006 bằng phương pháp phi tham số với kết quả hiệu quả kỹ thuật trong khoảng 0.85 - 1.0, hiệu quả phân bổ từ 0.25 đến 0.87.
Bảng 1. Tổng hợp nghiên cứu về phân tích hiệu quả hoạt động của NHTM
Thời gian nghiên cứu | Đầu vào | Đầu ra | |
Avkiran (1999) | 1986-1995 | - Chi phí lãi - Chi phí khác | - Thu nhập lãi ròng - Thu nhập ngoài lãi |
Sathye (2001) | 1996 | - Chi phí nhân viên - Vốn khả dụng | - Tiền gửi - Dư nợ tín dụng |
Neal (2004) | 1996 | - Số lượng chi nhánh - Vốn khả dụng | - Tiền gửi - Dư nợ tín dụng - Thu nhập ngoài lãi |
Sturm và Williams (2004) | 1998-2001 | - Số lượng nhân viên - Tiền gửi - Vốn chủ sở hữu | - Dư nợ tín dụng - Khoản mục ngoại bảng |
Nguyễn Việt Hùng (2008) | 200-2005 | - Chi phí nhân viên - Tài sản cố định ròng - Tiền gửi | - Thu nhập lãi ròng - Thu nhập ngoài lãi |
Deahoon và Ha Thu Vu (2008) | 2000-2006 | - Tài sản cố định - Tiền gửi - Số lượng nhân viên | - Dư nợ tín dụng - Thu nhập ngoài lãi - Khoản mục ngoại bảng |
Ngô Đăng Thành (2010) | 2008 | - Chi phí nhân viên - Chi phí lãi - Chi phí ngoài lãi | - Thu nhập lãi ròng - Thu nhập ngoài lãi - Tổng tài sản |
Có thể bạn quan tâm!
- Hạn Chế Của Đề Tài Và Hướng Nghiên Cứu Tiếp Theo
- Nợ xấu của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam - 23
- Tổng Hợp Nguồn Thu Thập Dữ Liệu Của Các Biến
- Hiệu Quả Chi Phí Của Các Ngân Hàng Trong Mẫu Nghiên Cứu
- Tổng Tài Sản Của Các Ngân Hàng Trong Mẫu Nghiên Cứu (Đvt: %)
- Nợ xấu của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam - 28
Xem toàn bộ 284 trang tài liệu này.
Nguồn: Nguyễn Minh Sáng (2015)
Ngô Đăng Thành (2010) thực hiện việc đánh giá hiệu quả kỹ thuật của 22 NHTM Việt Nam trong năm 2010 và kết quả hiệu quả kỹ thuật đạt 91.7%. Tác giả cho rằng ngân hàng vẫn còn khả năng rất lớn để nâng cao hiệu quả sử dụng yếu tố đầu vào của mình. Nguyễn Thị Hồng Vinh (2012) cũng đo lường hiệu quả kỹ thuật của 20 NHTM Việt Nam giai đoạn 2007-2010 bằng phương pháp phi tham số DEA. Kết quả cho thấy hiệu quả kỹ thuật của các NHTM Việt Nam tăng từ 0.7 năm 2007 đến 0.818 năm 2010. Tuy nhiên, hoạt động của NHTM Việt Nam vẫn chưa hiệu quả trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Nghiên cứu cũng cho thấy chỉ số Malmquist tăng 8.8% trung bình mỗi năm, mặc dù có sự sụt giảm năm 2009 là 24.9%.
4. Dữ liệu nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng phương pháp tiếp cận trung gian, NHTM được xem là đơn vị trung gian tài chính và cung cấp các dịch vụ tài chính, thanh toán cho các chủ thể trong nền kinh tế nên các biến đầu vào được lựa chọn với 3 biến đầu vào: chi phí nhân viên (X1), tài sản cố định (X2); tiền gửi (X3) và các biến đầu ra bao gồm: thu nhập từ lãi (Y1); thu ngoài lãi (Y2) bao gồm thu nhập từ hoạt động dịch vụ, thu nhập từ hoạt động mua bán chứng khoán kinh doanh, đầu tư và thu nhập từ hoạt động khác.
Dữ liệu được thu thập từ báo cáo thường niên 34 NHTM trong mẫu nghiên cứu giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2015, để hỗ trợ thêm cho việc phân tích hiệu quả sử dụng chi phí nhóm tác giả bổ sung thêm 3 biến bao gồm: chi phí nhân viên bình quân (W1), chi phí tư bản bình quân (W2) và chi phí lãi bình quân (W3) (Bảng 2).
Bảng 2. Mô tả chi tiết các biến trong mô hình phân tích phi tham số
Ý nghĩa | Dữ liệu thu thập | Đơn vị tính | |
Y1 | Thu lãi | Doanh thu thuần từ lãi vay | Triệu đồng |
Y2 | Thu ngoài lãi | Doanh thu ngoài lãi | Triệu đồng |
X1 | Chi cho nhân viên | Chi phí nhân viên | Triệu đồng |
X2 | Tài sản cố định ròng | Giá trị tài sản cố định ròng | Triệu đồng |
X3 | Tiền gửi khách hàng | Số dư tiền gửi khách hàng | Triệu đồng |
W1 | Chi phí nhân viên bình quân | X1/ Tổng số nhân viên | Triệu đồng / người |
W2 | Chi phí tư bản bình quân | Chi ngoài lãi / X2 | % |
W3 | Chi phí lãi bình quân | Chi phí lãi vay / X3 | % |
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
5. Thống kê mô tả về mẫu nghiên cứu
Bảng 3. Thống kê mô tả các biến trong đo lường hiệu quả chi phí
Y1 | Y2 | X1 | X2 | X3 | ||
2005 | Trung bình | 1,631,931 | 192,168 | 164,986 | 235,716 | 16,350,450 |
Giá trị lớn nhất | 17,113,708 | 1,816,327 | 2,300,000 | 2,553,176 | 119,732,347 | |
Giá trị nhỏ nhất | 5,206 | 217 | 1,673 | 1,828 | 40,008 | |
Độ lệch chuẩn | 3,636,525 | 419,695 | 444,150 | 508,551 | 33,904,150 | |
2006 | Trung bình | 2,210,401 | 352,918 | 192,215 | 276,859 | 20,861,941 |
Giá trị lớn nhất | 22,300,210 | 2,962,427 | 2,314,829 | 1,856,525 | 160,396,533 | |
Giá trị nhỏ nhất | 42,569 | 413 | 2,990 | 3,669 | 169,444 | |
Độ lệch chuẩn | 4,662,254 | 712,457 | 460,515 | 436,974 | 41,498,224 | |
2007 | Trung bình | 3,234,399 | 643,847 | 353,839 | 295,118 | 30,122,792 |
Giá trị lớn nhất | 29,055,125 | 7,652,195 | 4,372,070 | 2,234,051 | 233,638,843 | |
Giá trị nhỏ nhất | 68,502 | 352 | 8,100 | 7,555 | 328,715 | |
Độ lệch chuẩn | 6,096,593 | 1,530,175 | 841,526 | 451,445 | 53,609,564 | |
2008 | Trung bình | 5,152,649 | 638,244 | 515,762 | 412,724 | 36,064,393 |
Giá trị lớn nhất | 45,018,970 | 5,288,306 | 5,754,280 | 3,176,455 | 305,928,044 | |
Giá trị nhỏ nhất | 216,658 | 4,408 | 12,900 | 12,833 | 619,820 | |
Độ lệch chuẩn | 9,006,302 | 1,083,104 | 1,139,276 | 606,582 | 65,092,042 | |
2009 | Trung bình | 4,912,665 | 774,165 | 552,072 | 466,308 | 43,578,013 |
Giá trị lớn nhất | 43,246,817 | 5,638,515 | 4,907,936 | 3,337,832 | 331,893,865 | |
Giá trị nhỏ nhất | 270,648 | 9,872 | 28,815 | 17,042 | 677,245 | |
Độ lệch chuẩn | 8,263,992 | 1,235,185 | 1,056,066 | 674,321 | 70,285,418 | |
2010 | Trung bình | 7,899,923 | 1,012,556 | 748,485 | 549,615 | 57,229,980 |
Giá trị lớn nhất | 55,139,865 | 6,029,545 | 6,753,006 | 3,543,927 | 382,579,192 | |
Giá trị nhỏ nhất | 569,517 | 14,940 | 42,929 | 36,152 | 3,181,318 | |
Độ lệch chuẩn | 11,457,708 | 1,409,621 | 1,404,381 | 732,890 | 84,307,504 | |
2011 | Trung bình | 12,648,683 | 1,054,620 | 1,006,806 | 658,176 | 62,720,218 |
Giá trị lớn nhất | 77,104,416 | 6,184,782 | 9,787,234 | 3,666,895 | 399,396,404 | |
Giá trị nhỏ nhất | 600,519 | 8,224 | 82,500 | 60,880 | 1,254,258 | |
Độ lệch chuẩn | 16,936,583 | 1,543,258 | 1,896,219 | 789,338 | 89,646,197 | |
2012 | Trung bình | 12,204,679 | 1,119,009 | 984,707 | 906,258 | 79,087,543 |
Giá trị lớn nhất | 72,510,098 | 5,940,199 | 10,113,650 | 8,015,012 | 502,012,284 | |
Giá trị nhỏ nhất | 1,161,591 | 25,908 | 105,890 | 50,853 | 1,501,086 | |
Độ lệch chuẩn | 15,253,084 | 1,475,066 | 1,885,177 | 1,513,520 | 105,652,649 |
Trung bình | 10,642,163 | 1,335,046 | 1,144,200 | 900,917 | 97,952,660 | |
Giá trị lớn nhất | 58,976,961 | 8,418,656 | 10,500,000 | 4,646,984 | 568,691,890 | |
Giá trị nhỏ nhất | 907,947 | 18,744 | 150,000 | 55,109 | 1,739,554 | |
Độ lệch chuẩn | 13,565,608 | 1,992,326 | 1,981,729 | 1,123,915 | 125,784,981 | |
2014 | Trung bình | 9,365,453 | 1,325,845 | 859,428 | 741,510 | 91,160,544 |
Giá trị lớn nhất | 43,984,255 | 6,662,629 | 4,919,584 | 4,661,988 | 487,713,370 | |
Giá trị nhỏ nhất | 756,595 | 34,461 | 6,550 | 59,388 | 1,523,160 | |
Độ lệch chuẩn | 10,762,785 | 1,781,486 | 1,261,549 | 1,130,755 | 125,964,477 | |
2015 | Trung bình | 10,413,109 | 1,505,033 | 1,335,066 | 1,049,008 | 130,963,719 |
Giá trị lớn nhất | 49,005,228 | 8,254,164 | 6,255,652 | 4,554,885 | 564,583,061 | |
Giá trị nhỏ nhất | 1,165,593 | 53,257 | 142,656 | 99,684 | 13,753,950 | |
Độ lệch chuẩn | 12,318,477 | 2,337,376 | 1,584,025 | 1,409,333 | 153,441,421 |
Nguồn: Báo cáo thường niên của các NHTM Việt Nam, 2005-2015.
Bảng 3 mô tả về các biến trong đo lường hiệu quả chi phí của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Nếu xét về tỷ trọng các biến đầu vào và đầu ra có thể nhận thấy, đối với các biến đầu vào thì tiền gửi luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất qua các năm, tiếp theo là biến đầu vào tài sản cố định ròng và cuối cùng là biến chi phí nhân viên chiếm tỷ trọng thấp nhất. Đối với các yếu tố đầu ra thì doanh thu từ lãi vay luôn chiếm tỷ trọng rất lớn trong cơ cấu tổng doanh thu của ngân hàng điều này chứng tỏ các NHTM Việt Nam còn phụ thuộc quá nhiều vào hoạt động tín dụng tạo rủi ro lớn cho ngân hàng khi có sự thay đổi nhỏ trong các điều kiện, chính sách liên quan đến hoạt động tín dụng. Bên cạnh đó, cơ cấu thu nhập này còn cho thấy hệ thống các NHTM Thái Lan và Việt Nam chưa đa dạng hóa để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng cho khách hàng.
6. Kết quả phân tích hiệu quả chi phí
Kết quả mô hình ước lượng dữ liệu bao tham số bằng phần mềm DEAP 2.1 cho thấy hiệu quả chi phí của 34 NHTM Việt Nam trung bình giai đoạn 2005-2015 là 69,8%, với hiệu quả phân bổ (AE) là 87,3% và hiệu quả kỹ thuật (TE) theo giả định hiệu suất không đổi theo quy mô trung bình giai đoạn là 79,7%. Xu hướng các đường hiệu quả đều giảm từ năm 2010 (Hình 4). Điều này chứng tỏ các NHTM Việt Nam đang sử dụng các nguồn lực với chi phí cao làm giảm hiệu quả kinh tế toàn phần của ngân hàng.
Hình 4. Hiệu quả kỹ thuật (TE), hiệu quả phân bổ (AE) và hiệu quả chi phí (CE)
1.05
0.95
0.85
0.75
0.65
0.55
0.45
0.35
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
TE
AE
CE
Nguồn: Tính toán của tác giả
Bảng 4 cũng trình bày kết quả đo lường hiệu quả chi phí của từng NHTM Việt Nam trong mẫu giai đoạn từ năm 2005 -2015. Kết quả cho thấy hiệu quả chi phí của các NHTM Việt Nam đều giảm trong các năm 2009, 2010 và 2012.