quân Pháp. Không có sự hỗ trợ của hạm đội Pháp, sự phong tỏa châu Âu của Hitler sẽ trở thành bấp bênh. Vì vậy sự thất bại của Pháp đối với người Anh là một mối lo ngại - sự giao thông liên lạc của họ ở Địa Trung Hải sẽ bị đe dọa nhiều hơn. Mặt khác, sự tham chiến của Ý đã làm thay đổi thế cân bằng lực lượng trên biển. Nếu hải quân Pháp kết hợp với các hạm đội Ý và Đức, phe Trục sẽ chiếm được ưu thế về hải quân so với Anh, và con đường dành cho cuộc xâm chiếm Anh sẽ được mở rộng hay ít ra là gây bóp nghẹt sự giao thông liên lạc bằng đường biển.
Điều này còn gia tăng trầm trọng với sự đe dọa mạnh mẽ của thế lực hải quân Nhật đối với khu vực Viễn Đông, với những mưu đồ của chúng ở Đông Dương, và những hành động của chúng về phía Singapore.
Trong nỗi lo sợ nhìn thấy quân Đức chiếm hạm đội Pháp, trước những lời cam đoan của họ và những bảo đảm của đô đốc Darlan, người Anh thể hiện một quyết định rõ ràng, dứt khoát là bắn hạ hạm đội Pháp ở Mers-el-Kebir vì sợ rằng hạm đội này rơi vào tay của phe Trục sẽ làm đảo ngược thế cân bằng lực lượng ở Địa Trung Hải, gây bất lợi cho nước cho nước Anh.
Vì thế, nước Anh quyết định hạ thủ bạn đồng minh xưa cũ của mình. May thay, một phần hạm đội Pháp đã nằm trong các hải cảng Anh, ở Plymouth và Portsmouth, cũng như Alexandrie, Ai Cập.
Ngày 03/07/1940, quân Anh bắn hạ hạm đội Pháp ở Mers-el-Kebir, bất ngờ chiếm đóng các tàu nằm ở Anh, kế đến thỏa thuận một Hiệp ước Giải trừ vũ khí với hạm đội Pháp ở Ai Cập.
Nhưng các đơn vị quan trọng nhất nằm trong các hải cảng của khu vực Bắc Phi, ở Oran, Alger và Casablanca, và những hải cảng khác ở Dakar, Madagascar và Martinique. Một hạm đội Anh, do Đô đốc Somerville chỉ huy, đã được phái đi từ Girbraltar tới Mers-el-Kebir (Oran). Sứ mạng của nó là đặt viên chỉ huy người Pháp, Đô đốc Gensoul, trước phương án chọn lựa, hoặc qui tụ về một hải cảng của Anh hoặc đi đến Martinique để được giải trừ vũ khí hay bị đánh đắm tại đó. Vì không nhận được câu trả lời trong 6 tiếng đồng hồ, Somerville tuyên bố rằng ông ta tự thấy buộc lòng, một cách miễn cưỡng, phải dùng vũ lực để ngăn chặn các tàu này không rơi vào tay phe Trục.
Đô đốc Gensoul từ chối tối hậu thư và Somervile bất đắc dĩ phải tấn công. Phần lớn các tàu Pháp bị đánh chìm hay bị hư hại, và một ngàn thủy thủ bị giết chết. Tàu dương hạm chiến đấu “Strasbourg” và một bộ phận của hạm đội đã chọc thủng vòng vây và chạy về căn cứ ở Toulon. Năm ngày sau, ngày 08/7, các phi cơ của hải quân Anh gây tổn thương thiết giáp hạm “Richelieu” ở Dakar. Chiếc “Jean Bart” chưa được hoàn thành, đã bị làm cho bất động ở Casablanca.
Kể từ đó, một hạm đội quan trọng của Pháp vẫn còn đặt căn cứ tại Toulon và tạo ra mối đe dọa thường xuyên ở Địa Trung Hải. Nhưng không bao giờ người Đức và cả người Anh có thể sử dụng những tàu này. Trước cuộc đổ bộ ở Bắc Phi, cũng không sử dụng những tàu bị giam giữ ở Alexandrie hay bị đặt dưới quyền kiểm soát của người Mỹ ở Martinique. Sự can thiệp thô bạo của Somerville ở Mers-el-Kebir đã loại trừ Pháp với tư cách là một lực lượng chủ yếu ở Địa Trung Hải. Bấy giờ người Anh có thể quay sang chống lại hạm đội của Ý [40].
Có thể bạn quan tâm!
- Sức Mạnh Hải Quân Của Các Cường Quốc, Tháng 1 Năm 1939
- Hải Chiến Trên Đại Tây Dương Và Những Phân Tích Địa Chính Trị
- Hải Chiến Địa Trung Hải Và Những Phân Tích Địa Chính Trị
- Những trận hải chiến trong chiến tranh thế giới thứ hai dưới góc nhìn địa - chính trị - 11
- Những Trận Hải Chiến Ở Thái Bình Dương Trong Chiến Tranh Thế Giới Thứ Ii Và Những Phân Tích Địa – Chính Trị.
- Những trận hải chiến trong chiến tranh thế giới thứ hai dưới góc nhìn địa - chính trị - 13
Xem toàn bộ 160 trang tài liệu này.
Như vậy, có thể thấy rằng chính yếu tố địa lý đã tác động đến chiến lược, chiến thuật của quân Đồng minh. Vị trí địa lý, ý đồ chính trị đã buộc các nước gọi là đồng minh với nhau đã bất đắc dĩ hạ thủ nhau. Vấn đề làm chủ được mặt biển ảnh hướng lớn đến chiến thuật của cuộc chiến.
Tiểu kết chương 2
Hơn 20 năm hưu chiến mỗi cường quốc đều tính toán chiến lược cho mình. Khi hiệp ước về giới hạn quân sự chấm dứt, các nước cuộc chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra. Vẫn là châu Âu – vùng đất trái tim là nơi châm ngòi đầu tiên cho thế chiến. Cuộc thế chiến 2 đã lôi kéo nhiều nước tham gia hơn, trên hầu khắp chiến trường châu Âu, trong đó những cuộc chiến trên biển và đại dương diễn ra vô cùng ác liệt, góp phần quan trọng cho thắng lợi chung cuộc của Đồng minh. Như Churchill nhận định, trận Đại Tây Dương góp phần quyết định đến toàn bộ cuộc chiến. Những thắng lợi trên Đại Tây Dương, Địa Trung Hải đã tạo điều kiện cho lực lượng đồng minh đổ bộ thành công lên lục địa, kiểm soát được tuyến đường hàng hải huyết mạch. Thắng lợi của lực lượng đồng mình cho thấy đó là thắng lợi của sức sản xuất, nền kỹ nghệ hải quân, sự phối hợp nhịp nhàng của họ.
Xét về lý do địa lý gắn với an ninh lãnh thổ quốc gia thể hiện rõ đến chiến lược của các nước. Lý giải vì sao Hoa Kỳ đứng đầu là vị Tổng thống Roosevelt giúp đỡ Anh quốc. Người Đức, Ý trong những năm 30 đều không có chiến lược đối phó Anh quốc, vẫn có quan điểm có thể tránh cuộc chiến với Anh quốc. Những chiến lược quốc phòng của họ đều nhắm đến mối đe dọa từ nước Pháp.
Đại Tây Dương và biển Địa Trung Hải với vị trí chiến lược là cửa ngõ để cho các cuộc tiếp vận lên đất liền, con đường đi vào kiểm soát vùng đất trái tim, hòn đảo của giới. Vì vậy, xung quanh đây cũng hội tụ nhiều căn cứ quân sự, với sự hiện diện của các quốc gia được hình thành và phát triển từ biển. Nên đây là chiến trường mang tính quyết định của cuộc chiến.
Chương 3. NHỮNG TRẬN HẢI CHIẾN Ở THÁI BÌNH DƯƠNG TRONG CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ II
3.1. Bối cảnh lịch sử
3.1.1. Chiến lược Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, Nhật Bản
3.1.1.1. Hoa Kỳ
Như đã trình bày ở mục 2.1.1, không giành được nhiều quyền lợi ở hiệp ước Versailles, người Mỹ mở hội nghị Washington trở về châu Á – Thái Bình Dương và những hiệp ước giới hạn hải quân.
Cho đến tháng 9 năm 1939, khi cuộc chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ ở châu Âu, hải quân (Hoa Kỳ) khó có thể biết phải làm gì ở Đại Tây Dương, nhưng trong bốn mươi năm nó đã biết điều cần làm ở Thái Bình Dương. Trách nhiệm đối với Philippin, nước mà Hoa Kỳ đã giành được trong cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha vào năm 1898, liên quan đến chính trị Hoa Kỳ trong việc kiềm chế Nhật Bản xuống phía Nam.
Trong những sự kiện hỗn độn ở Thái Bình Dương từ 1900 – 1941 xuất hiện 2 yếu tố chính là sự phát triển ngoài ý muốn của Trung Quốc và sức mạnh ngày càng tăng của Nhật Bản. Chúng tôi đã cố gắng để nắm bắt được chính sách mở của của John Hay, điều này có nghĩa là sức mạnh của các cường quốc châu Âu và Nhật Bản có được là từ việc sát nhập một phần lãnh thổ Trung Quốc hoặc là những đặc quyền có được trên các cảng của Trung Quốc. Sau đó, cuộc chiến tranh Nga – Nhật vào 1904 -1905, Nhật Bản đã chiếm Hàn Quốc và một khu vực mới ảnh hưởng ở Mãn Châu. Điều này sẽ không đáp ứng được lâu dài cho Nhật Bản, và Philippin sẽ là mục tiêu tiếp theo [28, tr.17].
Vào đầu năm 1903 cơ quan lớn của chúng tôi về chiến lược hải quân, thuyền trưởng Mahan, thúc giục rằng Hải quân Hoa Kỳ tập trung vào Thái Bình Dương. Các vị đứng đầu của lực lượng hải quân, tiền thân của tham mưu liên quân được đề nghị 1905, cho rằng Hải chiến diễn ra ở vịnh Subic, Luzon. Tổng thống Theodore Roosevelt từ chối hỗ trợ này. Ông đã làm điều đó, và quốc hội đã cho xây dựng
phòng thủ dọc bờ biển như là một sự “răn đe”, rằng Nhật Bản có thể không bao giờ tấn công chúng tôi. Nhưng không thể nói trước được điều gì, một sự ngăn chặn thay vì chỉ là sự khiêu khích. Căn cứ hạm đội chiến tại Philippin có thể đã khiêu khích Nhật Bản để tấn công bất ngờ vào vịnh Subic, trước khi mở Kênh đào Panama vào tháng 6/1914 cho phép tàu chiến có thể nhanh chóng di chuyển đến một đại dương khác.
Nhật Bản một lần nữa gia tăng sức mạnh của mình bằng cách tham gia Thế chiến thứ nhất là đồng minh của Anh với rất ít nỗ lực và thiệt hại tối thiểu, có được các đảo của đế chế Đức – đảo Marshall và đảo Caroline, và tất cả các đảo Marianas trừ đảo Guam. Tổng thống Wilson, có tầm nhìn xa về Nhật Bản hơn Theodore Roosevelt, khi phản đối những nội dung tại Hội nghị Hòa bình về chương trình hải quân năm 1916. Ông ủng hộ mạnh mẽ sự răn đe của Nhật Bản. Wilson đã được bác bỏ vào điểm đầu tiên, và kế hoạch lớn về hải quân, như chúng ta đã thấy, đã bị hủy bỏ sau chiến tranh. Nhật bản giữ các đảo thuộc vành đai phòng thủ với rất nhiều sân bay và nhiều căn cứ hải quân có thể đã được xây dựng sau năm 1936.
Trong trường hợp có chiến tranh với Nhật Bản, kế hoạch Hải quân Hoa Kỳ đã xem xét cho quân đội để bảo vệ Manila và giữ ra cho khoảng ba đến bốn tháng cho đến khi Hạm đội chiến có thể vượt qua Thái Bình Dương và tăng cường bao vây. Người Nhật sở hữu các đảo được uỷ quyền thực hiện nhiệm vụ này trừ khi vị trí chủ chốt trong Marshalls và Caroline được đảm bảo đầu tiên, và những con nhện dọn sạch; rằng tăng thời gian dự kiến cho quân đội để tổ chức ra ở Luzon đến chín tháng. Và, như chúng ta đã thấy, một phần của Washington thỏa thuận năm 1922 là chúng ta từ bỏ quyền tăng cường cơ sở của chúng tôi ở Guam và Philippines [28, tr.18].
Một tình huống không thể trong chiến lược đã được tạo ra cho chúng ta, phần lớn bởi sự điên rồ của chúng ta. Chúng tôi đã hứa sẽ bảo vệ sự toàn vẹn của Trung Quốc và Philippines, mà không cần bất cứ điều gì ở quân đội có nghĩa là để thực hiện một chính sách như vậy.
Trong khi chờ đợi sự tự do, nhóm phương Tây định hướng chính trị của Nhật Bản, vốn đã được tham gia vào các biện pháp an ninh tập thể của Hội Quốc Liên, đã
bị quấy rối và sợ hãi bởi một phong trào gần song song với Đức quốc xã của Hitler. Kodoha đã cho rằng việc đó là nhằm đặt Nhật Bản dưới sự kiểm soát quân đội, "giải phóng" Trung Quốc, Ấn Độ, Philippines và Đông Á từ "đế quốc nước ngoài", và đặt tất cả các nước châu Á dưới quyền bá chủ của Nhật Bản. Năm 1931 quân đội Nhật hoàng di chuyển tới Mãn châu. Thư ký Stimson không thể thuyết phục Tổng thống Hoover hành động chống lại sự xâm lược Mãn Châu và cùng năm đó là Thượng Hải. Một ủy ban của Hội Quốc Liên lên án hành động của Nhật Bản và yêu cầu Nhật rút khỏi Mãn Châu; câu trả lời của Nhật Bản là đã rút khỏi Hội Quốc Liên và thông báo về phần mình các hiệp ước hạn chế hải quân sẽ kết thúc vào năm 1936.
Năm 1931, dấu hiệu tốt cho hải quân là đô đốc hải quân Carl Vinson của Georgia được bổ nhiệm danh dự làm Chủ tịch Ủy ban hải quân vào Hạ viện. Vinson không chỉ xử lý tốt cho hải quân, ông còn là một chuyên gia về kĩ thuật và đã cống hiến sức lực của mình để bảo vệ đất nước. Đô đốc Furue đã viết: “không một thành viên nào của Quốc hội” có hiểu biết tốt hơn về các nhu cầu của hải quân, cũng như không có một ai tinh thông trong ngành lập pháp của chính phủ có thể nhận ra nhu cầu đó” . Trong số các nhà Hải quân lớn Carl Vinson xứng đáng ở vị trí cao. Tuy nhiên, trong kiến trúc sư chiến thắng là cựu trợ lý Bộ trưởng Hải quân trong Chiến tranh thế giới I – người trở thành Tổng thống của Hoa Kỳ vào ngày 4/3/1933 đã mang chính sách kinh tế mới “New Deal” cho lực lượng vũ trang cũng như quốc gia. Nhưng ông cũng chưa sẵn sàng để kết thúc việc nhượng Nhật Bản [28, tr.19].
3.1.1.2. Nhật Bản
Ở mục 1.2.4 đã trình bày về tư tưởng địa chính trị của Nhật Bản. Theo nhiều nhà nghiên cứu dựa trên những văn bản lưu trữ tại hoàng cung sau khi chiến tranh kết thúc, Nhật Bản là một nước quân chủ chuyên chính lâu đời với những tư tưởng tự tôn, tự đại và sùng bái cá nhân cực kỳ sâu sắc [14, tr.25]. Ở thời kỳ đầu của triều đại Minh Trị, guồng máy quân sự vẫn đặt dưới quyền của Hội đồng Nhà nước, các vấn đề quân sự không tách rời nhau. Đến năm 1878, thành lập thêm Bộ tổng tham mưu quân đội chuyên trách vấn đề chiến tranh, coi như một cơ quan tách rời khỏi Bộ Quốc phòng và cũng hoạt động độc lập ngoài sự chỉ đạo của chính phủ. Mặc dù vậy, thì Thiên hoàng vẫn là thống soái tối cao, được hỗ trợ bởi các cơ quan tư vấn là
Bộ Tổng tham mưu Lục quân và Tổng tham mưu Hải quân. Các cơ quan Bộ tổng tham mưu Lục quân và Hải quân thảo kế hoạch và thực hiện chức trách hoàn toàn độc lập, không phụ thuộc vào chính phủ.
Nhà sử học Jacques Valette nhận xét: “Những quyết sách lớn về chính sách đối ngoại của Nhật Bản đều soạn thảo dưới sức ép của các Bộ Tổng tham mưu Lục quân và Hải quân” [Dẫn lại theo 14, tr.28]. Từ năm 1936, một nhóm sĩ quan đã nghiên cứu kế hoạch về “sự cần thiết của Nhật Bản phải tiến xuống miền Nam Châu Á nhằm mục đích kiểm soát các giếng dầu ở Borneo (Indonexia). Đầu tháng 9
/1936, trưởng phòng tác chiến Bộ Tổng tham mưu Hải quân đã soạn thảo một kế hoạch đệ trình Tổng tham mưu trưởng: thành lập một hạm đội “tự quản” để thực hiện các kế hoạch tác chiến đã soạn thảo, chuẩn bị cho những cuộc chiến đấu trên biển Nam châu Á.
Khu vực Nam Á và Đông Nam Á là nơi có nhiều tài nguyên chiến lược quan trọng đối với Nhật Bản. Theo số liệu trong đống hồ sơ mật được phanh phui sau khi chiến tranh kết thúc, năm 1939 Nhật Bản phải nhập từ nước ngoài tới 100% cao su, 100% bô – xít, 93% dầu mỏ, 83 % quặng sắt, 17% gạo, 15% than đá. Để giải quyết những khó khăn rất lớn về nguyên vật liệu chiến lược mà Nhật Bản đang gặp phải. Sau khi cân nhắc hai con đường: Tây tiến nhằm xâm lược khu vực Viễn Đông của Liên Xô và Nam tiến tràn xuống khu vực Đông Nam Á và Nam Á, hội nghị nghiên theo hướng “Nam tiến”. Bộ trưởng Chiến tranh còn đưa ra phương án: bước đầu chiếm đóng Đông Dương nhằm tạo bàn đạp; bước thứ hai từ Đông Dương tiến đánh Nam Dương, và toàn khu vực Đông Nam Á rồi đánh rộng sang Nam Á.
Theo giới quân sự Nhật Bản, chiếm Đông Dương không những tạo đầu cầu tiến xuống Nam Dương, Đông Nam Á rồi Nam Á mà còn cắt đứt luồng hàng tiếp tế của phương Tây chi viện cho Trung Quốc, vận chuyển trên tuyến đường sắt từ của biển Hải Phòng tới Côn Minh. Như vậy, tạo điều kiện thuận lợi để nhanh chóng thúc đẩy giải quyết vấn đề Trung Quốc.
Trước cơn sốt mở rộng chiến tranh ở châu Âu, Hoàng đế Hirohito cùng với giới quân nhân cũng phải cân nhắc kỹ: Pháp và Hà Lan rõ ràng đã suy yếu rõ rệt, nhưng Anh còn có Mỹ là nước có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn mạnh nhất, đáng
gờm nhất.
Như vậy, Nhật hoàng chấp nhận Nam tiến nhưng chỉ thị cần phải gây sức ép bằng sức mạnh quân sự để đạt được mục đích tiến quân vào Đông Dương không nên gây ra những “sự cố” như đã từng tiến hành ở Mãn Châu và Trung Quốc.
Nhà sử học Jacques Valette nhận xét, ngay từ đầu mùa hè năm 1940, Thủ tướng Nhật Bản hồi đó là Đô đốc Yonai, rồi tiếp đó là Hoàng thân Konoye trở lại chiếc ghế Thủ tướng rời bỏ từ đầu năm 1939 đều cho rằng “Một cuộc tiến công quân sự chiếm đóng các thuộc địa của Hà Lan và Anh là không nên nghĩ đến mà chỉ nên thương lượng đàm phán trên thế mạnh của sức ép quân sự”. Tháng 11/1940, Nhật Bản đã bắt đầu tiến hành những “hoạt động ngoại giao” với Hà Lan và cả với Mỹ. Đặc biệt việc người Nhật tìm cách trì hoãn tiến đánh Liên Xô khi mà người Đức liên tiếp thúc giục đã cho thấy rằng, Nhật Bản quyết tâm “Nam tiến”, thành lập khối Đại Đông Á, thâu tóm tài nguyên chiến lược, củng cố và phát triển binh lực rồi mới tính đến chuyện tiến công Liên bang Liên Xô [Dẫn lại theo 14, tr.32].
3.1.2. Quan hệ Hoa Kỳ và Nhật Bản trước thế chiến II
Trong những năm trước cuộc chiến tranh thế giới thứ 2, với tư tưởng địa chính trị đề cao chính phủ Nhật Bản thực hiện chính sách “Đại Đông Á” phát động cuộc chiến nhằm bá quyền châu Á.
Cuộc phát động chiến tranh thù địch ở châu Âu đặt Nhật Bản trước một sự lựa chọn. Phải chăng nó sẽ, cũng như đã làm trong điều đó để củng cố sức mạnh kinh tế mà không phải trả bằng vàng hay máu cho cái giá của những cuộc chinh phục? Hay là, còn dễ dàng hơn nữa, phải chăng nó sẽ xâm chiếm bằng sức mạnh với tất cả những gì nó thèm khát? Quyền lợi kinh tế của Nhật đòi hỏi phải kết thúc “sự kiện Trung Hoa”, nhưng phe quân sự không hề muốn nghe về vấn đề này. Rời bỏ tất cả các cuộc chinh phục trong mười năm vừa qua đồng nghĩa với việc họ thừa nhận rằng chương trình của mình dành cho sự phồn vinh của xứ sở - chương trình chính xác hướng về những cuộc chinh phục – là một sự phá sản. Hòa bình đối với họ thật nhục nhã và sẽ có nghĩa là mất đi sự thao túng toàn bộ chính quyền.
Trong khi người Anh và người Pháp lo lắng nhiều nhất về sự đe dọa của phe Quốc xã, người Nhật lợi dụng điều đó để chiếm đóng Hải Nam vào ngày 10/2/1939