có hiệu quả trên Đại Tây Dương làm cho Anh quốc khủng hoảng. Một viễn cảnh của năm 1941 là Anh quốc bị tấn công và nguy cơ về an ninh lãnh thổ của Hoa Kỳ bị đe dọa.
*Những nỗ lực đối phó của Anh quốc
Để đối phó với Đức đồng thời nhằm giành lại thế chủ động trên Đại Tây Dương, hải quân Anh đã đề ra hàng loạt chiến lược đối phó với “bầy sói” của Karl Donitz. Ban đầu, họ đã sử dụng 50 tàu khu trục cũ của Mỹ được trao đổi ở các căn cứ quân sự thuộc Caribbe. Đến cuối tháng 5, hạm đội vận tải xuyên Đại Tây Dương đầu tiên của Anh đã giương buồm với nhóm hộ tống kéo dài theo sau.
Họ quyết định rút một số đông khu trục hạm đang giám sát khả năng xâm lược của người Đức sang hộ tống các đoàn tàu hàng, bổ sung thêm các tàu hộ tống nhỏ cùng chiến đấu hạm tải trọng dưới 1.000 tấn gia nhập đội quân “bảo kê” này. Mặt khác, thành lập các đoàn tàu hộ tống chuyên nghiệp. Điều này khác hẳn quan niệm cũ: cứ hễ là tàu chiến thì đương nhiên đủ sức hộ tống tàu hàng. Giờ đây, các tàu hộ tống cùng thủy thủ đoàn được huấn luyện đặc biệt, đảm bảo có thể tác chiến đồng đội, biết cách săn lùng và nắm vững được cách thức tiêu diệt tàu ngầm mới được tung đi làm nhiệm vụ.
Dựa vào sự tiến bộ về kỹ nghệ quân sự, Anh quốc đã tăng cường trang thiết bị, vũ khí cho các đoàn tàu hộ tống cũng là mấu chốt cơ bản của chiến lược chống trả. Tàu hộ tống được trang bị thêm radar và vô tuyến số cự li ngắn. Radar thời này tuy chưa đủ nhạy để dò ra tàu ngầm mỗi khi trồi lên mặt nước nhưng cùng với vô tuyến số, các hạm trưởng có thể định vị được vị trí của tàu hàng, các tàu hộ tống khác, liên lạc được với nhau và với các chiến đấu cơ, đặc biệt là khi phối hợp tấn công tàu ngầm. Đặc biệt, người Anh nhận ra rằng mật mã cũ Naval Cypher No.3 đã lộ nên quyết định thay bằng Naval Code Number 1. Việc thay thế này khiến sức tấn công của tàu ngầm Đức giảm hẳn. Bộ phận giải mã B-Dienst của Đức “điếc đặc”, không thể tiếp tục cung cấp thông tin tình báo về đường đi nước bước của đối phương. Chính những yếu tố này giúp hải quân Anh đã vô hiệu hóa chiến thuật “bầy sói” của Đức.
Cuối tháng 5/1941, cuộc không kích từ những máy bay trên hàng không mẫu
hạm đã làm chậm hải trình của Bismarck, bị đánh đắm bởi Home Fleet. Thất bại này đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ chiến đấu trên mặt biển ở Đại Tây Dương [33], [19].
Sự can thiệp của Mỹ
Có thể bạn quan tâm!
- Những Trận Hải Chiến Ở Đại Tây Dương Và Địa Trung Hải Trong Chiến Tranh Thế Giới Ii
- Sức Mạnh Hải Quân Của Các Cường Quốc, Tháng 1 Năm 1939
- Hải Chiến Trên Đại Tây Dương Và Những Phân Tích Địa Chính Trị
- Những Trận Hải Chiến Ở Thái Bình Dương Trong Chiến Tranh Thế Giới Thứ Ii
- Những trận hải chiến trong chiến tranh thế giới thứ hai dưới góc nhìn địa - chính trị - 11
- Những Trận Hải Chiến Ở Thái Bình Dương Trong Chiến Tranh Thế Giới Thứ Ii Và Những Phân Tích Địa – Chính Trị.
Xem toàn bộ 160 trang tài liệu này.
Winston Churchill tìm kiếm sự ủng hộ của nước Mỹ. Vị Thủ tướng Anh lúc bấy giờ tin rằng sự trợ giúp của Mỹ sẽ đóng vai trò quyết định trong việc đánh bại người Đức. Washington đã nắm đầy đủ thông tin về những tổn thất kinh hoàng của Anh quốc trên Đại Tây Dương và nhận định rằng: việc người Anh thua trận chỉ còn là vấn đề thời gian. Ngoài ra, Washington bắt đầu cảm thấy Mỹ La-tinh cũng đang chịu sự đe dọa của trục ba Berlin – Roma – Tokyo, nhất là khi Hiệp ước ba bên Đức, Ý, Nhật được ký vào ngày 27.9.1940 tại Berlin.
Trong một “cuộc nói chuyện bên góc lò sưởi”, được phát trên radio ngày 29- 12, Tổng thống xác định tình thế của quốc gia: kể từ sau nội chiến Bắc – Nam, chưa bao giờ đất nước lại “ở trong một tình thế hiểm nghèo như hiện nay”:
Nếu Anh quốc sụp đổ, những cường quốc của phe Trục sẽ kiểm soát các lục địa châu Âu, châu Á, châu Phi và châu Úc; chúng sẽ thống trị trên các đại dương. Kể từ lúc đó, các cường quốc ấy cũng sẽ chỉ đạo chống lại bán cầu của chúng ta bằng những lực lượng hải quân và bộ binh khổng lồ. Về phương diện kinh tế cũng như quân sự, không phải là cường điệu để nói rằng, tất cả chúng ta đang sống trước họng pháo, một quả pháo nạp đầy những quả đạn công phá…Chúng ta phải sản xuất ra những loại vũ khí và những chiếc tàu với tất cả năng lực và nguồn nguyên liệu mà chúng ta có khả năng… Chúng ta phải là kho vũ khí cả các nước dân chủ…
Các dân tộc ở châu Âu đang lo tự vệ, không yêu cầu chúng ta đi chiến đấu ở chỗ của họ. Họ yêu cầu chúng ta về chiến cụ, phi cơ, xe tăng, đại bác, để bảo vệ sự tự do của họ và sự an toàn của chúng ta. Tôi khẩn thiết rằng: chúng ta cần phải cung cấp đầy đủ những thú ấy cho họ một cách nhanh chóng để chính chúng ta và con cháu mình không biết đến nỗi sợ hãi và những nỗi đau khổ của chiến tranh mà người khác sẽ chịu đựng [1, Tr.163-164].
Tháng 1.1941, liên minh tối mật giữa Anh và Mỹ đã được lên kế hoạch và trong chuyến thăm London, trợ lý của Nhà Trắng – Harry L.Hopkins.
Sự can thiệp của Mỹ cũng đóng vai trò hỗ trọ tích cực. Tuy nhiên, khi quân Mỹ tham chiến thì Thời Hoàng Kim Thứ Hai cho tàu ngầm Đức đã xuất hiện. Trong nửa đầu của năm 1942, tàu ngầm Đức chỉ tập trung hoạt động ở khu vực ven bờ phía đông, nơi mà những lực lượng phòng thủ thiếu thốn các vũ khí chống tàu ngầm cần thiết.
Trận chiến lở Đại Tây Dương đã ngày một trở nên quan trọn hơn với quân Đồng minh. Trận chiến đó có thể mang đến chiến thắng trong bối cảnh tái xâm nhập châu Âu lục địa để đánh bại nước Đức, ưu tiên hàng đầu hơn cả quân Nhật. Vì vậy, số lượng tàu trinh sát, lực lượng tàu hộ tống đông hơn bao gồm cả hàng không mẫu hạm (tàu sân bay), cũng như những biện pháp kỹ thuật hỗ trợ để phát hiện và phá hủy tàu ngầm Đức được gia tăng. Tuy nhiên, bất chấp những nỗ lực hạn chế, bao gồm cả phá hủy các nhà máy sản xuất, thì số lượng tàu gầm Đức vẫn gia tăng rất nhanh chóng. Chiến thuật bầy sói được sử dụng, để gom các tuyến đường vận tải lại tập trung tấn công vào hạm đội áp tải, đã mang lại những hiệu quả nhất định. Máy bay chiến đấu ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn trong cuộc chiến. Tuy nhiên, trận chiến không thể quyết định được chiến thắng cho đến khi Vùng Đen ở giữa Đại Tây Dương hoàn toàn bị khép lại. Mặt khác lực lượng máy bay chiến đấu và thuyền chiến ở các căn cứ Na Uy của Đức, bao gồm Tirpitz, đang tạo ra những vấn đề đáng báo động đối với các hạm đội hộ tống ở Bắc Băng Dương hỗ trợ cho quân Nga thông qua các cảng biển phía Bắc.
Cực điểm của cuộc chiến đã xuất hiện vào mùa xuân năm 1943. Sau khi chiến dịch lùa sói đánh bại hai hạm đội áp tải. Tình thế bỗng nhiên hoàn toàn đổi khác.
Vào tháng 5, có 41 tàu ngầm Đức bị đánh đắm, buộc quân Đức phải tạm thời rút lui khỏi Đại Tây Dương. Ngoài ra, tỉ lệ thuyền buôn được chế tạo đã dần được thay thế những con số mất mát đó. Tàu ngầm Đức nhanh chóng trở lại Đại Tây Dương, nhưng họ không còn là một lực lương hùng mạnh như trước đây nữa, bất chấp các cải tiến mới về ngư lôi đời mới và ống thông hơi, vốn giúp cho tàu ngầm Đức có thể di chuyển lâu hơn dưới mặt nước và tránh được mối đe dọa từ không lực của đối phương.
Thắng lợi của quân đội Đồng minh tỏ ra là sự thắng thế về công nghệ, và tiềm
lực công nghiệp quân sự: Cuộc chiến tranh trên biển dần dần trở thành một vấn đề về lòng dũng cảm và tính kiên trì, nhưng cũng là một vấn đề về sản xuất, khoa học và cả chiến thuật. Châu Mỹ thực hiện những điều thần kỳ trong lĩnh vực đóng tàu. Vào năm 1942, đã đóng được những chiếc tàu có tổng trọng tải 800000 tấn. Năm 1943 là 20.000.000 tấn. Từ năm 1942 đến 1943, ngành đóng tàu buôn tăng gấp đôi trong nước đồng minh, từ 7.000.000 tấn thô lên 14.500.000 tấn, điều này vượt qua những tổn thất của gần 11.000.000 tấn [1], [19].
Chính trận đánh ở Đại Tây Dương đã lôi kéo, từ từ và chắc chắn Hoa Kỳ vào cuộc chiến. Hoa Kỳ chú trọng vào châu Âu nhiều hơn ở Viễn Đông. Lý giải điều này, Tiến sĩ sử học Lê Phụng Hoàng trong cuốn Tiểu sử chính trị của Roosevelt đã viết:
Vì xét theo góc cạnh và được soi rọi bằng các giá trị tinh thần và giá trị vật chất cơ bản nhất, châu Âu cho đến năm 1941 vẫn luôn có ý nghĩa sống còn đối với Hoa Kỳ. Đó là nguồn gốc của đại bộ phận dân Mỹ, gốc tích của mọi sinh hoạt văn hóa tinh thần của người Mỹ. Nếu không một ai có thể sống mà không có quá khứ, thì Hoa Kỳ cũng không thể tồn tại với nghĩa đầy đủ của từ này, nếu thiếu vắng một châu Âu như nó đã từng như vậy. Bất chấp học thuyết Moroe - nền tảng tư tưởng của xu hướng biệt lập, Hoa Kì thực ra mà nói không gì khác hơn là sự tiếp xúc nối xuyên Đại Tây Dương về mọi mặt của châu Âu, trước hết là Tây Âu. Đến cuối thế kỉ XIX, khi chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn độc quyền, sự ngăn cách mà Đại Tây Dương tạo ra chỉ còn có ý nghĩa hết sức tương đối về địa lý. Và với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, khoảng cách đó bị thu ngắn thật nhanh chóng. Chiến tranh thế giới thứ nhất là minh họa không thể bác bỏ được cho sự thu ngắn này. Tình trạng chia rẽ trong nhận thức chủ quan của công chúng Mỹ không mảy may ảnh hưởng đến thực tại khách quan là số phận của Hoa Kỳ gắn liền với châu Âu. Chính vì tầm quan trọng của châu Âu, mà chính phủ Roosevelt đã quyết định chọn Đức là kẻ thù chính cần đánh bại trước tiên, kể cả sau khi Nhật tham chiến.
Thắng lợi nhanh chóng và có phần dễ dàng của chủ nghĩa quốc xã Đức đã trở thành mối đe dọa trực tiếp đến không chỉ an ninh, mà cả nền văn minh có nguồn
gốc châu Âu của Hoa Kỳ [7, tr.97].
Thắng lợi của phe Đồng minh tại Đại Tây Dương về việc tiệt trừ tàu ngầm có kết quả đã đảm bảo cho các đoàn tiếp vận có thể vượt Đại Tây Dương và đổ bộ dễ dàng lên đất Pháp.
Cuộc hải chiến Đại Tây Dương diễn ra với đầy đủ ý nghĩa của nó dưới góc độ địa chính trị là cuộc chiến tranh để giành quyền kiểm soát con đường thương mại biển, đó là quá trình tiếp viện cho Anh quốc, đất nước đảo quốc phụ thuộc rất nhiều vào những nguyên vật liệu từ bên ngoài. Cuộc chiến này ngày càng phức tạp bởi những quyền lợi về an ninh lãnh thổ của các bên có liên quan. Với nước Đức: Thắng lợi này sẽ làm tàn lụy nền kinh tế nước Anh, vốn dĩ ở châu Âu, Anh quốc là nước gây cho Đức nhiều cản trở trên con đường thu phục vùng đất trung tâm này. Đối với Anh quốc, nếu thất bại thì Anh quốc sẽ mất đi sức mạnh thương mại trên biển, đặc biệt là phải chịu số phận như Pháp, điều này sẽ không thể chấp nhận được đối với một nền văn minh này. Đối với nước Hoa Kỳ, tham gia trận chiến Đại Tây Dương không chỉ bởi lý do tinh thần, an ninh lãnh thổ mà Hoa Kỳ có lẽ còn vì mục đích không muốn Đức làm bá chủ vùng đất trái tim, làm bá chủ thế giới.
Xét về nguyên nhân dẫn đến kết cục của cuộc chiến thì điểm nổi bật làm xoay chuyển tình thế là sức mạnh của tiềm lực kinh tế, tiềm lực quân sự và sự phát triển nền kĩ nghệ của các bên.
2.3. Hải chiến Địa Trung Hải và những phân tích địa chính trị
*Vai trò địa – chính trị
( xem hình 2.2)
Địa Trung Hải, biển thuộc Đại Tây Dương, là nơi phân chia giữa các lục địa lớn ở châu Phi, Châu Á và Châu Âu, thông với Đại Tây Dương qua eo biển Gibranta, với biển Đen qua eo biển Dacdannen, biển Macmara và eo biển Bôxpho, với Biển Đỏ qua kênh Xuyê. Diện tích 2.505.000 km2, dài 3.900km, rộng 1.800km phía tây sang phí đông từ Gibraltar đến Palestine. Qua Địa Trung Hải có nhiều đường hàng hải quốc tế quan trọng. Những cảng và căn cứ quân sự chính: Bacxelona (Tây Ban Nha), Macxay (Pháp), Gionova, Na pôli, Vê nê xia, Triex tê (Italia), Tê xa nô li ki (Hi Lạp). Chính vì vậy, trong cuộc chiến tranh thế giới thứ 2,
nơi đây đã lôi kéo nhiều nước tham gia. Riêng đối với nước Anh, Địa Trung Hải là tuyến giao thông huyết mạch để tiếp viện cho quân đội Anh ở Phi châu và Trung Đông, và để tiếp viện cho nước Anh, Địa Trung Hải phải tiếp tục được mở rộng. Đối với Anh quốc đường hàng hải qua Địa Trung Hải và vòng quanh châu Phi là những đường giao thông có tính cách sinh tử đối với một số xứ trong đế quốc Anh.[2],[27], [21]. Sức mạnh hải quân Anh được duy trì ở đây thông qua đội thuyền Địa Trung Hải và các căn cứ hải quân ở Gibranltar lẫn về truyền thống vượt trội so với Ý.
Đối với Ý, từ lâu Mussolini đã ôm ấp giấc mơ về một Đế chế Tân La Mã trải rộng chung quanh một Địa Trung Hải được biến đổi thành cái hồ nước của Ý. Hắn đặt viên đá đầu tiên cho giấc mơ ấy kể từ cuộc xâm chiến Ethiopie vào năm 1935, và đã củng cố nó bằng việc xây dựng một đế chế Đông Phi bao gồm Erythree và Somali thuộc Ý. Để thực hiện giấc mộng của mình về một Tân La Mã và về một “Mare Nostrum” (Biển của chúng tôi), Mussolini phải đánh bại Pháp, chiến thắng hạm đội của Anh ở Địa Trung Hải, phải xua quân xuyên qua Albanie cho tới tận Hy Lạp để kiểm soát toàn bộ khu vực Địa Trung Hải, và phải tiến chiếm Ai Cập để có thể thâu tóm bờ biển phía Nam của Địa Trung Hải và kênh đào Suez. Con đường hướng về phía Moussoul và dầu hỏa của Trung Đông cũng sẽ được mở rộng [2, Tr.153-154] .
Vì vậy, Cuộc chiến trên biển Địa Trung Hải là cuộc chiến giành kiểm soát và tạo phương tiện cho các cuộc đổ bộ lên đất liền ở các khu vực chung quanh biển này. Trận chiến Địa Trung Hải diễn ra với tộc độ chậm, nhưng rất phức tạp và dữ dội với sự tham gia của Anh, Pháp, Đức, Hy Lạp, Ý và Hoa Kỳ.
*Diễn biến
Với vai trò địa – chính trị, lực lượng hải quân chủ chốt ở Địa Trung Hải là lực lượng hải quân Anh, Pháp, Ý.
**Trận Taranto
(Xem hình 2.4)
Taranto là căn cứ hải quân chính của Italia trên bờ vịnh Taranto, biển Yonio (thuộc biển Địa Trung Hải), cảng có độ sâu từ 6-25m [2, tr.902].
Rạng sáng ngày 12/ 11/1940, đô đốc Cunningham, chỉ huy hạm đội Anh ở phía Đông Địa Trung Hải sử dụng không quân từ tàu sân bay đã đánh úp đội Ý trong căn cứ của nó ở Tarente [Taranto]. Tàu Illustrions của Anh đã tiến vào biển Ionienne cách căn cứ hải quân Taranto của Ý 170 dặm và tung ra một đợt oanh kích với 21 máy bay phóng ngư lôi. Cuộc tấn công trong đêm đã không gây khó khăn cho việc tiếp cận mục tiêu của lực lượng đột kích. Máy bay Anh đã phóng ngu lôi trúng 3 thiết giáp hạm Ý: 1 chiếc chìm, 2 chiếc bị loại khỏi vòng chiến [18, tr 35]. Với sự tổn thất chỉ là hai máy bay, người Anh loại phân nửa số tàu chiến của Ý ra ngoài vòng chiến. Năm tháng sau, trong khi hộ tống một đoàn tàu hướng về Hy Lạp, một lần nữa Cunningham đã chặn đánh hạm đội Ý ở ngoài khơi mũi Matapan, trong vùng biển Ionie. Ông ta đánh chìm 3 tuần dương hạm và hai khu trục hạm, đồng thời gây tổn hại cho các tàu chiến khác. Người Ý đành phải tháo chạy và trốn về các căn cứ của họ. Cán cân lực lượng ở Địa Trung Hải giờ đây nghiêng hẳn về phía người Anh. Với trận Taranto lần đầu tiên không quân tàu sân bay được sử dụng làm lực lượng tiến công chủ yếu của hạm đội. [2, tr.902]. Kinh nghiệm nóng hổi của chiến trường Địa Trung Hải được người Nhật áp dụng cho cuộc tấn công vào Trân Châu cảng.
**Trận chiến ở Manta
(Xem hình 2.5)
Manta là căn cứ hải quân của Anh, nằm gần nước Ý nên dĩ nhiên trở thành mục tiêu quân sự đầu tiên của cuộc bành trướng phát xít. Ngày 11 tháng 6 năm 1940, Phát xít Ý tấn công Manta. Trong thời gian đầu bộ chỉ huy Anh không tiếp ứng Manta vì cho rằng hòn đảo nhỏ này sẽ nhanh chóng bị Ý khuất phục. Quân phòng vệ Manta lúc bấy giờ chỉ có 6 chiếc máy bay hai tầng cánh cũ kĩ. Nhưng sau khi theo dõi cuộc không chiến đầu tiên của phe Trục, quân Đồng minh nhận thức được Manta có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng đảo này, từ đây có thể kiểm soát lối vào Bắc Phi từ châu Âu và có thể chống chọi được với phe Trục. Nếu quân phát xít chiếm giữ được khu vực này, Alexandria sẽ bị cô lập khỏi Gibraltar và cũng sẽ không thể ngăn chặn các con đường tiếp tế cho quân phát xít đến Bắc Phi. Lập tức quân Đồng minh kéo đến bảo vệ và tiếp viện cho Manta.
Ngày 28/3/1941, để ngăn cản hạm đội áp tải Anh đến Hy Lạp. Lực lượng đặc nhiệm của hải quân Ý có 1 chiến hạm, 8 tàu tuần dương, 9 tàu khu trục. Đội thuyền địa trung hải của Anh có 3 chiến hạm và một hàng không mẫu hạm.
Quân Đức than phiền rằng Ý thiếu nỗ lực trong việc ngăn chặn vận chuyển từ Ai Cập đến Hy Lạp để hỗ trợ Anh trong cuộc chiến chống lại quân Ý. Để đáp lại lời phàn nàn của quân Đức, một lực lượng đặc nhiệm Ý, dưới sự chỉ huy của Thủy sư đô đốc Iachino, bắt đầu tiến về phía Bắc và Nam của đảo Crete với hy vọng chạm mặt hạm đội áp tải. Tuy nhiên lực lượng này đã bị phát hiện bởi máy bay tuần tra. Do đó, đội thuyền Địa Trung Hải, dưới sự chỉ huy của Thủy sư đô đốc Cunningham, đã giương buồm từ Alexandria để ngăn chặn Iachino. Quân Ý hiện giờ chạm mặt với lực lượng trên tàu tuần dương – khu trục của Anh, với nhiệm vụ che chắn cho hạm đội áp tải. Hoàn cảnh này khiến họ phải tính đên đội thuyền chính. Máy bay chiến đấu của Anh từ hàng không mẫu hạm Formidalble đã tiến công chiến hạm Vittorio Veneto bằng một quả ngư lôi, tiếp đó quân Anh đã tấnc ông vào tàu tuần dương của Ý. Trong nỗ lực giải thoát cho chiến thuyền này, quân Ý lại chịu tổn thất thêm một số chiến thuyền khác. Số thương vong: Ý mất 3 tàu tuần dương và hai tàu khu trục. Còn Anh bị hư hại 1 chiến hạm [19, tr.376].
Quân Ý một mặt bao vây đường biển một mặt mở các cuộc oanh tạc liên tục cùng với sự tiếp sức của không quân Đức. Quân Đồng minh chịu thiệt hại hết sức nặng nề. Trong một cuộc tiếp vận đường biển, một đoàn tàu hàng gồm 115 chiếc từ Anh sang bị tấn công và chỉ 2 chiếc sống sót về đến bến. Mussolini vênh váo rằng Địa Trung Hải lâu nay vẫn là Biển Riêng của Ý [40].
Đầu năm 1942, quân Anh cho thêm 61 chiếc Spitfire vào tăng cường sức kháng cự của quân đội Manlta nhưng lương thực nhiên liệu vẫn khan hiếm. Dần dần quân Đồng Minh đưa được tiếp tế đến Malta nhiều hơn nhưng phần lớn tàu hàng bị phá hỏng không trở về Anh được.
Nhờ giữ được Malta, quân Đồng Minh kiểm soát được Địa Trung Hải. Từ đảo này, hải quân Anh đưa tàu ngầm ra phá hủy rất nhiều tàu bè của quân phe Trục và khống chế tiếp vận cho Rommel tại chiến trường Bắc Phi.
Một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến chiến lược ở Địa Trung Hải là lực lượng hải