Nhận Xét Về Những Nhân Tố Chủ Yếu Tác Động Tới Quan Hệ Việt Nam - Ấn Độ Giai Đoạn 2007 - 2021


Theo đó, Ấn Độ xem Việt Nam là một trụ cột trong chính sách Hướng Đông/Hành động hướng Đông. Việt Nam là mắt xích chiến lược trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ nhằm tăng cường quan hệ với các quốc gia ĐNA trên các lĩnh vực chủ yếu và đảm bảo lợi ích chiến lược của quốc gia Nam Á tại khu vực này. Việt Nam cũng là một mắt xích quan trọng trong quá trình kết nối giữa Ấn Độ với ASEAN, là một mũi nhọn quan trọng trong việc thúc đẩy các lợi ích chính trị, kinh tế và an ninh của Ấn Độ ở ĐNA. Đồng thời, Việt Nam đóng vai trò đáng kể trong chính sách cân bằng quyền lực của Ấn Độ với Trung Quốc. Tổng Thống Ấn Độ Ram Nath Kovind đã khẳng định: “Việt Nam là một người bạn đáng quý và là thành viên của ASEAN, là một trụ cột trong chính sách Hành động hướng Đông của Ấn Độ. Chúng tôi đang củng cố quan hệ thương mại với Việt Nam và với ĐNA - một trong những đối tác kinh doanh quan trọng nhất của Ấn Độ” [64, tr.199].

Như vậy về cơ bản, trong giai đoạn 2007 - 2021, nhân tố lãnh đạo có tác động thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển trên cả hai phương diện là nâng cấp quan hệ và hiệu quả hợp tác trên một số lĩnh vực chính, đặc biệt là quốc phòng - an ninh và kinh tế. Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Ấn Độ từ chính sách Hướng Đông sang Hành động hướng Đông tạo điều kiện cho Việt Nam có lợi thế quan trọng trong việc thực thi chính sách đối ngoại “đa phương hóa, đa dạng hóa” để phát triển đất nước, giúp Việt Nam duy trì được sự “cân bằng chiến lược” một cách linh hoạt trong quan hệ với các nước lớn, tăng khả năng bảo vệ chủ quyền biên giới, biển đảo, an ninh chính trị, kinh tế, phát triển quan hệ nhiều mặt với các nước trong khu vực, đặc biệt là với các cường quốc khu vực và thế giới.


Tiểu kết

Lý giải cho sự thay đổi tích cực trong quan hệ Việt Nam - Ấn Độ giai đoạn 2007 - 2021, chương 2 đã phân tích làm rõ sự tác động của các nhân tố chủ yếu: quốc tế và khu vực, bản sắc và lợi ích quốc gia và nhân tố lãnh đạo. Ba nhân tố này được luận giải dựa trên khung phân tích chính sách đối ngoại cùng các luận điểm của chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa kiến tạo. Ở cấp độ hệ thống, nhân tố quốc tế và khu vực được xem xét dưới các luận điểm của chủ nghĩa tự do và hiện thực. Nhân tố này có tác động thúc đẩy quan hệ hai nước trên các phương diện: (i) gia tăng động lực/nhu cầu hợp tác, nhất là trong lĩnh vực kinh tế; (ii) lựa chọn chính sách cân bằng quyền lực để ứng phó với Trung Quốc trên cơ sở nhận thức chung về lợi ích an ninh - chiến lược. Ở cấp độ quốc


gia, nhân tố bản sắc và lợi ích quốc gia được phân tích dưới góc nhìn của chủ nghĩa kiến tạo. Những nét tương đồng về bản sắc và lợi ích chung và những nét khác biệt về bản sắc và lợi ích riêng được phân tích để đánh giá tác động của nhân tố này tới quan hệ hai nước. Cuối cùng, ở cấp độ cá nhân/nhóm, nhân tố lãnh đạo được xem xét dưới luận điểm của chủ nghĩa kiến tạo. Những quan điểm của ĐCS Việt Nam và những người đứng đầu Chính phủ Ấn Độ đều cho thấy những nhận thức rõ ràng về vị trí, vai trò của mỗi nước trong chính sách đối ngoại của nhau, từ đó có tác động thuận cho sự phát triển của quan hệ Việt Nam

- Ấn Độ giai đoạn 2007 - 2021.

Tuy đã có những bước phát triển mới, nhưng quan hệ Việt Nam - Ấn Độ vẫn chưa tương xứng với nội hàm đối tác chiến lược/chiến lược toàn diện mà hai nước đã xác lập. Cụ thể: (i) các khuôn khổ và hợp tác cụ thể còn chưa sâu, hai bên đặc biệt là Việt Nam còn quan ngại, dè dặt và thận trọng nhất định trong quan hệ hợp tác quốc phòng - an ninh; (ii) quan hệ kinh tế vẫn chưa tương xứng với tiềm năng mỗi nước, đặc biệt trong tương quan so sánh với các quốc gia khác trong khu vực như Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Trung Quốc; (iii) các lĩnh vực khác gần như không có đột phá hay thay đổi lớn, nếu có chủ yếu mang tính một chiều từ phía Ấn Độ. Bên cạnh những hạn chế, tồn tại trong nước, khoảng cách địa lý, chính sách mỗi nước…, thì sự bất cân xứng giữa Việt Nam, Ấn Độ với Trung Quốc, đặc biệt là Việt Nam cùng với sự gần kề địa lý đã có những tác động nhất định đến quan hệ hai nước, khiến sự hợp tác chưa đạt được kết quả như mong đợi.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.

Những kết quả nêu trên là cơ sở quan trọng cho nghiên cứu trong chương 3 để làm rõ yếu tố kế thừa và yếu tố thay đổi hoặc mới của các nhân tố chủ yếu tác động đến quan hệ Việt Nam - Ấn Độ, dự báo chiều hướng tác động của các nhân tố tới quan hệ Việt Nam - Ấn Độ đến năm 2027 và đề xuất khuyến nghị chính sách cho Việt Nam trong quan hệ với Ấn Độ.


Những nhân tố tác động đến quan hệ Việt Nam - Ấn Độ từ năm 2007 đến nay - 16

CHƯƠNG 3

DỰ BÁO CHIỀU HƯỚNG VẬN ĐỘNG, TÁC ĐỘNG CỦA NHỮNG NHÂN TỐ CHỦ YẾU TỚI QUAN HỆ VIỆT NAM - ẤN ĐỘ ĐẾN NĂM 2027 VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM


Đến năm 2027, về cơ bản các nhân tố chủ yếu tác động tới quan hệ Việt Nam - Ấn Độ giai đoạn 2007 - 2021 tiếp tục tác động đến quan hệ hai nước, trong đó mặt thúc đẩy nổi trội hơn; ít khả năng xuất hiện thêm những nhân tố mới, mà chủ yếu là những chiều hướng vận động mới của các nhân tố cũ.

3.1. Nhận xét về những nhân tố chủ yếu tác động tới quan hệ Việt Nam - Ấn Độ giai đoạn 2007 - 2021

Xét về mức độ tác động của các nhân tố chủ yếu tới quan hệ Việt Nam - Ấn Độ giai đoạn 2007 - 2021, có thể thấy về cơ bản, các nhân tố đã phân tích tác động theo hướng thúc đẩy sự hợp tác giữa Việt Nam và Ấn Độ, tuy nhiên một số khía cạnh của các nhân tố này cũng tạo nên lực cản trong hiệu quả hợp tác song phương. Xét về vị trí, vai trò của các nhân tố tác động trong tiến trình phát triển của quan hệ Việt Nam - Ấn Độ từ đối tác chiến lược lên đối tác chiến lược toàn diện (2007-2021), thì nhân tố lợi ích quốc gia đóng vai trò quan trọng nhất, có tính quyết định, vì lợi ích quốc gia tác động tới quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại. Phục vụ lợi ích quốc gia dân tộc ngày càng trở thành nguyên tắc tối thượng cho mọi chính sách đối ngoại và hoạt động đối ngoại của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam và Ấn Độ. Lợi ích quốc gia là kim chỉ nam, là nguyên tắc chỉ đạo việc hoạch định chính sách đối ngoại, chính vì vậy, mọi chính sách và hoạt động đối ngoại của Việt Nam và Ấn Độ đều phải tính đến và phù hợp với lợi ích quốc gia dân tộc. Trong giai đoạn 2007 - 2021, trên cơ sở những bản sắc đã được xác định, lợi ích quốc gia của Việt Nam và Ấn Độ bao gồm cả lợi ích chung/song trùng và lợi ích khác nhau. Lợi ích song trùng giữa Việt Nam và Ấn Độ bao trùm giai đoạn này là lợi ích an ninh - chiến lược, trong khi lợi ích riêng gắn với bản sắc khác nhau của hai nước lại không phải là trở ngại lớn, vì về cơ bản các lợi ích riêng đó không mâu thuẫn, đối kháng, mà có tác động tương hỗ cho các lợi ích chung, làm lực đẩy cho quan hệ song

phương phát triển.

Gắn với lợi ích quốc gia, nhân tố bản sắc với những nét tương đồng là nền tảng quan trọng để tạo dựng sự tin cậy, trên cơ sở đó thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển cả ở kênh song phương và đa phương. Ấn Độ - một cường quốc đang


lên không có tham vọng bá quyền và Việt Nam - một quốc gia có vai trò quan trọng ở ĐNA, đang định hình quốc gia tầm trung, hai nước không có quá khứ thù địch, không có xung đột lợi ích trực tiếp, chia sẻ những lợi ích song trùng và cùng mong muốn hòa bình và ổn định ở CA-TBD, ÂĐD-TBD là những lý do quan trọng để đưa quan hệ song phương vận động theo hướng tích cực cả về cấp độ quan hệ và hiệu quả hợp tác. Sự tiến triển của quan hệ Việt Nam - Ấn Độ được phản ánh chính xác trong Tuyên bố chung Việt Nam - Ấn Độ tháng 9/2016. Tuyên bố nhấn mạnh, quan hệ giữa hai nước “được xây dựng trên nền tảng vững chắc, có sự liên kết chặt chẽ về văn hóa, lịch sử và văn minh, sự tin cậy và hiểu biết lẫn nhau, cũng như sự ủng hộ mạnh mẽ tại các diễn đàn quốc tế và khu vực‖ (Xem Phụ lục 4). Thêm vào đó, ý chí của lãnh đạo hai nước thể hiện qua quan điểm, tư duy và đường lối/chính sách đối với nhau tạo nền tảng, cơ sở cho sự phát triển quan hệ. Những chuyến thăm cấp cao của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ của hai nước không những đặt nền tảng, tạo động lực cho việc triển khai các thỏa thuận hợp tác đã được ký kết, mà còn thắt chặt thêm độ tin cậy chính trị giữa hai nước. Lãnh đạo hai nước đều thống nhất khẳng định, việc phát triển quan hệ song phương giữa hai nước là ưu tiên cao trong chính sách đối ngoại của từng nước, là nhân tố quan trọng để hai nước cùng phát triển thịnh vượng, bảo đảm hòa bình, ổn định ở khu vực và thế giới. Hai bên nhất trí tăng cường và mở rộng hơn nữa nội hàm của mối quan hệ đối tác chiến lược/chiến lược toàn diện trên các trụ cột chính. Tuy nhiên, một số rào cản về tình hình nội tại, định hướng/chính sách phát triển, những khác biệt văn hóa nhất là trong kinh doanh (các yếu tố bên trong), khoảng cách địa lý… của Việt Nam và Ấn Độ khiến sự hợp tác giữa hai nước gặp một số thách thức, khó khăn dẫn đến hiệu quả chưa cao như mong đợi trong tương quan cấp độ quan hệ và tiềm năng mỗi nước.

Nhân tố quốc tế và khu vực là nhân tố bên ngoài có tác động đáng kể đến quan hệ hai nước giai đoạn 2007 - 2021 trên hai phương diện tác động đến nhận thức về lợi ích và lý giải hành vi của Việt Nam và Ấn Độ trong quan hệ quốc tế. Nhân tố này một mặt tác động thúc đẩy quan hệ hai nước (chiếm phần chủ đạo), mặt khác một vài khía cạnh của nhân tố cũng tạo nên lực cản cho hiệu quả hợp tác song phương, đặc biệt trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh. Xét về khía cạnh tiền đề/cơ sở, những xu thế chủ đạo trong quan hệ quốc tế là điều kiện khách quan tác động đến nhu cầu/động lực hợp tác giữa Việt Nam và Ấn Độ. Không một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển hoàn toàn biệt lập với thế giới bên


ngoài, ngược lại, mọi quốc gia đều chịu sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp từ các nhân tố bên ngoài và môi trường xung quanh. Trong khi, bối cảnh khu vực, đặc biệt với sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc đe dọa lợi ích cốt lõi của cả Việt Nam và Ấn Độ, đe dọa môi trường hòa bình, hợp tác của khu vực, theo đó tăng cường hợp tác là một cách để cân bằng với Trung Quốc. Sự bất cân xứng giữa Việt Nam, Ấn Độ trong tương quan so sánh với Trung Quốc cùng với sự gần kề địa lý là lý do thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển, đồng thời cũng là thách thức nhất định đối với quan hệ song phương trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh theo nghĩa những phản ứng của Trung Quốc khiến Việt Nam và Ấn Độ, đặc biệt là Việt Nam có những thận trọng, dè dặt nhất định.

Xét về mối quan hệ giữa các nhân tố, có thể thấy giữa các nhân tố có mối quan hệ qua lại với nhau. Các nhân tố chủ yếu tác động đến quan hệ Việt Nam - Ấn Độ giai đoạn 2007 - 2021 bao gồm cả nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài. Bản sắc là cơ sở để định hình/xác định lợi ích quốc gia của Việt Nam và Ấn Độ, trong khi lợi ích quốc gia là nguồn để hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại, được cụ thể hóa thông qua quan điểm, tư duy và các quyết sách đối ngoại của ĐCS Việt Nam và các nhà lãnh đạo Ấn Độ. Nhân tố bên ngoài (quốc tế và khu vực) lý giải động cơ và hành vi của Ấn Độ trong quan hệ với nhau và là chất xúc tác đưa tới cách nhìn nhận về lợi ích, theo đó là cơ sở thực tiễn để hoạch định chính sách đối ngoại của mỗi nước.

3.2. Dự báo chiều hướng vận động của những nhân tố chủ yếu tác động tới quan hệ Việt Nam - Ấn Độ đến năm 2027

3.2.1. Nhân tố quốc tế và khu vực

3.2.1.1. Quốc tế

Đại đa số các dự báo đều chỉ ra trong 5-10 năm tới, hoà bình, hợp tác, liên kết và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn rất phức tạp, gay gắt; cục diện đa cực ngày càng rõ nét với sự thay đổi trong cán cân sức mạnh toàn cầu - sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc, Ấn Độ, sự suy giảm sức mạnh của Mỹ [15, tr.78]. Cuộc khủng hoảng Ukraina đã, đang và tiếp tục đẩy quan hệ Nga - Mỹ rơi vào trạng thái đối lập nghiêm trọng nhất kể từ khi Liên Xô tan rã. Sự nổi lên của Trung Quốc - đối thủ số một của Mỹ, nhưng cũng không hoàn toàn là đồng minh của Nga làm cho “thế chân vạc”5 Mỹ - Trung - Nga thể hiện rõ nét [71]. Ấn Độ trong phiên họp đặc biệt của Đại Hội



5 Thế chân vạc là hình ảnh để nói về mối quan hệ của ba cường quốc: Mỹ - Trung - Nga trong thế giới đương đại, trong đó, mỗi cường quốc được coi như một chân, vừa nương tựa vào nhau, vừa cạnh tranh với nhau.


đồng Liên hợp quốc (2/3/2022) đã bỏ phiếu trắng cho nghị quyết lên án chiến dịch quân sự đặc biệt của Nga tại Ukraina. Đây được nhìn nhận là một động thái thể hiện quan điểm của Ấn Độ nhằm duy trì lựa chọn tiếp cận với tất cả các bên [191]. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển, nhưng bị thách thức bởi sự cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn và sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Luật pháp quốc tế và các thể chế đa phương toàn cầu đứng trước những thách thức lớn [43].

Kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng, suy thoái nghiêm trọng và có thể còn kéo dài do tác động của đại dịch Covid-19 và các biện pháp trừng phạt của Mỹ cùng các nước khác nhằm vào Nga để phản đối “chiến dịch quân sự đặc biệt” của nước này tại Ucraina. Các quốc gia, nhất là các nước lớn điều chỉnh lại chiến lược phát triển, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài, làm thay đổi các chuỗi cung ứng. Cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại, tranh giành thị trường, các nguồn tài nguyên, công nghệ, nhân lực chất lượng cao, thu hút đầu tư nước ngoài giữa các nước ngày càng quyết liệt, tác động mạnh đến chuỗi sản xuất và phân phối toàn cầu. Các nước điều chỉnh chiến lược và phương thức phát triển nhằm thích ứng với tình hình mới. Tăng ngân sách quốc phòng, chạy đua vũ trang ngày càng quyết liệt trở thành xu thế phổ biến. Đặc biệt, một số nước đẩy mạnh hiện đại hóa quân đội, tăng cường năng lực quân sự với những thế hệ vũ khí mới. Quan hệ đối ngoại của các nước lớn có diễn biến phức tạp, khó lường, từ đó dẫn đến xu hướng điều chỉnh chính sách của các quốc gia theo hướng đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết.

Nhìn vào xu hướng dịch chuyển trọng tâm quyền lực từ Tây sang Đông trong hai thập niên đầu của thế kỷ XXI, có thể thấy rằng, cạnh tranh địa - chiến lược tiếp tục diễn ra khắp các châu lục, trong đó CA-TBD, ÂĐD-TBD sẽ tiếp tục là địa bàn trọng tâm. Trục quan hệ Mỹ - Trung tiếp tục có ảnh hưởng chi phối các cặp quan hệ Trung - Ấn, Mỹ - Nga, Trung - Nhật, Trung - Nga (song phương); Mỹ - Trung - Nga, Mỹ - Trung - Ấn, Mỹ - Ấn - Nhật (tam giác), Mỹ - Ấn - Nhật - Australia (tứ giác)… Về tính chất, trong mối quan hệ “vừa hợp tác, vừa đấu tranh” giữa các nước lớn, mặt “đấu tranh” đậm nét hơn, quyết liệt hơn, thậm chí toàn diện hơn, phức tạp hơn cả thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Có điều khác là tính tùy thuộc lẫn nhau, nhất là về kinh tế cao hơn nhiều so với trước đây [66]. Trong 5 năm tới, dù trật tự thế giới có xu hướng đa cực, đa trung tâm, nhưng Mỹ và Trung Quốc vẫn là hai cực có sức chi phối lớn trên bàn cờ chiến lược thế giới. Hai nước sẽ vẫn là đối trọng trực tiếp và có sức nặng nhất trong


chính sách của đối phương. Trong 5 năm tới, cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung nhiều khả năng vẫn tiếp diễn. Trong khi đó, quan hệ đối tác giữa Ấn Độ và Mỹ sẽ tiếp tục được củng cố nhằm đối trọng với Trung Quốc, nhưng ít khả năng Ấn Độ sẽ thiết lập liên minh chính thức với Mỹ [130].

Trong thời gian tới, thế giới tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống với những nét mới. Đó là tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh cục bộ, chiến tranh mạng, dịch bệnh, đói nghèo, biến đổi khí hậu... Dịch bệnh Covid-19 đã khiến cho kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng, suy thoái trầm trọng nhất kể từ cuộc đại khủng hoảng 1929 - 1933 và chưa dễ dàng phục hồi ngay được. Điều đó cũng sẽ dẫn đến nghịch lý giữa nhu cầu hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế với chủ nghĩa bảo hộ có xu hướng gia tăng. Để đối phó với các thách thức an ninh truyền thống đã, đang và có thể diễn ra, các nước sẽ tăng cường các biện pháp ngăn chặn và phòng thủ. Điều đó đòi hỏi các nước tăng cường sức mạnh nội tại và đẩy mạnh hợp tác với các đối tác cùng chí hướng nhằm xây dựng những chiến lược và những cách thức mới để vận hành sự hợp tác nhằm hỗ trợ cho các mục tiêu này.

Trong 5 - 10 năm tới, KH-CN vẫn là một trong những động lực để phát triển của các quốc gia, đặc biệt trở thành nhu cầu bức thiết của các nước đang phát triển. Điều đó sẽ thúc đẩy các nước này tăng cường hợp tác với các nước có nền KH - CN tiên tiến để rút ngắn thời gian phát triển. Ngoài ra, sự phát triển của công nghệ sẽ dẫn tới việc hình thành các loại hình vũ khí, khí tài mới, có ưu thế vượt trội so với những thế hệ vũ khí cũ, đồng thời cũng đặt ra bài toán về nâng cấp vũ khí, khí tài quân sự để bảo đảm quốc phòng - an ninh và chủ quyền lãnh thổ. Trong bối cảnh đó, cạnh tranh về KH - CN giữa các nước phát triển sẽ ngày càng trở nên gay gắt. Bên cạnh sự cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc trong thời điểm hiện tại và sẽ còn tiếp tục gia tăng và mở rộng trong thời gian tới, thì cạnh tranh Trung - Ấn trong lĩnh vực này cũng được dự báo sẽ có những điểm phức tạp. Theo đó, những vấn đề nổi lên trong cạnh tranh KH - CN là vấn đề an ninh mạng và bảo mật thông tin..., nhìn rộng hơn là an ninh quốc gia khi nhiều dịch vụ, kết cấu hạ tầng thiết yếu của xã hội hoạt động dựa trên nền tảng của các công nghệ mới. Thách thức đối với vấn đề bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ cũng phức tạp và đa dạng hơn trước. Trong một thế giới mà ranh giới giữa thế giới thực và thế giới ảo ngày càng bị xóa nhòa, ngoài chủ quyền là đường biên giới trên thực địa, xuất hiện cả chủ quyền trong không gian mạng.


3.2.1.2. Khu vực

CA-TBD, ÂĐD-TBD nằm trên tuyến hàng hải, hàng không sôi động bậc nhất thế giới, nơi quy tụ lợi ích của nhiều nước, đặc biệt là các nước lớn, cùng sự hiện diện của các liên minh, tổ chức, thể chế đa phương quan trọng, tiếp tục là khu vực phát triển hàng đầu thế giới với sự hiện diện của nhiều nước lớn và các nền kinh tế năng động [202]. Việc CPTPP chính thức có hiệu lực từ 30/12/2018 đã đánh dấu lần đầu tiên hình thành một khu vực mậu dịch tự do ở CA - TBD, trở thành một sân chơi mới của các nền kinh tế. Bên cạnh đó, Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực giữa ASEAN với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và New Zealand (RCEP) được ký ngày 15/11/2020 tại Hội nghị Cấp cao lần thứ 37 của ASEAN và bắt đầu có hiệu lực từ 01/01/2022 sẽ có những tác động lớn tới cục diện kinh tế - chính trị trong khu vực CA-TBD. RCEP tạo nên một thị trường rộng lớn nhất thế giới với quy mô 2,2 tỷ người tiêu dùng, chiếm 30% dân số thế giới, tổng GDP 26,2 nghìn tỷ USD, tương đương 30% GDP và chiếm gần 28% thương mại toàn cầu [17]. Với các cam kết mở cửa thị trường trong lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, RCEP tạo cơ sở pháp lý vừa bảo đảm hài hòa quy tắc xuất xứ giữa các bên tham gia, vừa tăng cường các biện pháp, điều kiện thuận lợi cho hoạt động thương mại, vừa phát triển các chuỗi cung ứng mới trong khu vực. Như vậy, RCEP sẽ thiết lập thị trường xuất khẩu ổn định, lâu dài cho các nước ASEAN trong bối cảnh các chuỗi cung ứng toàn cầu đang gặp nhiều rủi ro do đại dịch Covid-19 và xuất hiện các yếu tố bất định; đồng thời, tạo khuôn khổ ràng buộc pháp lý trong khu vực về chính sách thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ, thương mại điện tử, giải quyết tranh chấp, góp phần tạo môi trường thương mại công bằng trong khu vực. Ngay sau khi RCEP có hiệu lực, sẽ tạo một sức bật mới, cú hích mới cho sự phát triển thương mại trong khu vực, đặc biệt là các nước tham gia. Tới năm 2025, theo dự báo của IMF, tăng trưởng GDP của Trung Quốc sẽ là 35.882,3 tỷ đôla, theo sau lần lượt là Mỹ, Ấn Độ và Nhật Bản [202].

Cục diện khu vực CA-TBD hiện nay và trong 5 năm tới vẫn xoay quanh cặp quan hệ Mỹ - Trung với đặc điểm cạnh tranh tiếp tục gia tăng, mâu thuẫn tiếp tục căng thẳng. Mỹ, Trung Quốc và các cường quốc khác tiếp tục tranh giành ảnh hưởng ở khu vực. Do đó, xuất hiện nhiều tập hợp lực lượng, đi theo các hướng lớn do Mỹ dẫn dắt, do Trung Quốc dẫn dắt, do các lực lượng tầm trung như Nhật Bản, Ấn Độ, Australia, ASEAN làm nòng cốt và tập hợp lực lượng theo vấn đề [12]. Trong thời gian tới, hướng ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Tổng thống Mỹ Joe Biden “xử lý thử thách địa - chính trị lớn nhất thế

Xem tất cả 232 trang.

Ngày đăng: 26/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí