kỷ XXI là mối quan hệ với Trung Quốc” [249]. Mối quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc theo Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken “sẽ cạnh tranh khi cần thiết, hợp tác khi có thể và đối đầu khi bắt buộc” [115], nhất là trong bối cảnh Trung Quốc đang hướng tới mục tiêu 100 năm lần thứ hai. Đối với Trung Quốc, ba ưu tiên đối ngoại hàng đầu của nước này sẽ là: phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; bảo vệ chủ quyền, an ninh và đạt vị thế hàng đầu trong hệ thống thế giới. Theo đó, Trung Quốc nhấn mạnh đến việc tham gia các liên kết khu vực và FTA, xem xét tham gia CPTPP và thúc đẩy hơn nữa Sáng kiến BRI nhằm thực hiện tham vọng bước vào thập niên thứ ba của thế kỷ XXI. Trong quan hệ với Mỹ, Trung Quốc tiếp tục duy trì khuôn khổ vừa hợp tác vừa đấu tranh. Nước này tiếp tục theo đuổi các chính sách dựa trên thực lực kinh tế và quân sự đang ngày càng lớn mạnh, trong khi sức mạnh và tầm ảnh hưởng của Mỹ trên trường quốc tế bị giảm sút trong những năm qua [62].
Trong 5 - 10 năm tới, khu vực ÂĐD-TBD tiềm ẩn nhiều mâu thuẫn, căng thẳng, các nước trong khu vực phải đối mặt với nhiều thách thức chiến lược ở mọi cấp độ trong một không gian đầy tính cạnh tranh. Nhiều khả năng Trung Quốc tiếp tục xu hướng chính sách cưỡng ép để theo đuổi mục đích thay thế Mỹ và trở thành cường quốc chiếm vị thế vượt trội trong khu vực, một giai đoạn mới của sự cạnh tranh chiến lược đang được mở ra. Sự ổn định và đặc điểm về trật tự của khu vực ÂĐD-TBD vốn đã được tạo lập dựa trên sức mạnh của Mỹ cùng với các quy tắc và chuẩn mực đã có từ lâu sẽ đứng trước nhiều thách thức.
Ngoài ra, theo bản báo cáo “Xu hướng toàn cầu 2025: Một thế giới đã thay đổi” (2008) của Trung tâm Nghiên cứu chiến lược trực thuộc Chính phủ Mỹ (NIC), diễn biến quan hệ Trung - Ấn sẽ đặt ra những thách thức nghiêm trọng đối với ASEAN. Cụ thể, những lo ngại chiến lược của Trung Quốc và Ấn Độ về an ninh đường biển và quyền tiếp cận các nguồn năng lượng sẽ tạo động lực cho cuộc chạy đua vũ trang trên biển. Cuộc cạnh tranh giữa lực lượng hải quân hai nước sẽ diễn ra tại vùng biển Ấn Độ Dương, Biển Đông và những điểm nóng trên vùng biển chiến lược của khu vực ĐNA, đặc biệt là eo biển Malacca [130]. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn. Hòa bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông đứng trước thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột. ASEAN có vai trò quan trọng trong duy trì hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác khu vực, nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn [43].
Bên cạnh quan hệ Mỹ - Ấn, Bộ Tứ QUAD gồm Mỹ, Nhật Bản, Australia và Ấn Độ cũng được dự báo có thể phát huy vai trò trong thời gian tới do khu vực
ÂĐD-TBD vốn thiếu một thực thể đa phương với sức mạnh, quyết tâm và sự thống nhất để đưa tới các giải pháp có tính răn đe tập thể. Trong thời gian tới, QUAD có thể đóng vai trò then chốt trong việc ứng phó với Trung Quốc tại khu vực ÂĐD-TBD. Tầm nhìn của QUAD đã được Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ đặc trách Đông Á, ông David Stilwell tổng kết như sau: “QUAD tìm cách thiết lập, thúc đẩy và bảo đảm các nguyên tắc ÂĐD-TBD, đặc biệt là khi các chiến thuật, hành động gây hấn của Trung Quốc gia tăng trong khu vực” [49]. Tờ Nikkei Asia ngày 25/10/2020 dẫn lời một quan chức cấp cao của Bộ Ngoại giao Mỹ cho biết, QUAD trong tương lai có thể chào đón các thành viên mới với mục tiêu chung là đối phó ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc [44]. Sau 10 năm gián đoạn, thời gian gần đây, QUAD đã chính thức nối lại cuộc đối thoại bốn bên và nâng cấp thành đối thoại của các Ngoại trưởng. Đáng chú ý, ngày 20/3/2020, QUAD đã mời thêm ba quốc gia gồm Hàn Quốc, New Zealand và Việt Nam cùng thảo luận, nhóm này được gọi là “Bộ Tứ mở rộng” (QUAD Plus).
ĐNA được đánh giá là khu vực tiếp tục phát triển năng động, ổn định, có giá trị địa - chiến lược và địa - kinh tế với tất cả các nước lớn trên thế giới. Các nước lớn từ lợi ích chiến lược và những ý đồ khác nhau đã, đang và sẽ gia tăng mối quan hệ nhiều mặt với các nước trong khu vực. ĐNA do đó tiếp tục là khu vực quy tụ nhiều lợi ích chiến lược và địa bàn cạnh tranh ảnh hưởng giữa các cường quốc. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căngthẳng, phức tạp, quyết liệt hơn. Hòa bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hànghải, hàng không trên Biển Đông đứng trước thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơxung đột [43].
Tại ĐNA, ASEAN có vai trò quan trọng trong duy trì hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác khu vực, nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Mỹ coi ASEAN ở vị trí trung tâm của cả hai khu vực Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, đồng thời có sáng kiến, hợp tác dài hạn đến năm 2025; Trung Quốc đang đề xuất nâng cấp quan hệ với ASEAN lên mức đối tác chiến lược toàn diện và xây dựng kế hoạch hợp tác giai đoạn 2021 - 2025. Ấn Độ nhấn mạnh ASEAN nằm ở trung tâm chính sách Hành động hướng Đông và Tầm nhìn ÂĐD - TBD của nước này; Nhật Bản ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN, đồng thời cung cấp ODA, FDI và thương mại đứng số một và hai của ASEAN; Hàn Quốc, Australia cũng khẳng định vai trò trung tâm của ASEAN; Hàn Quốc tăng cường hợp tác khu vực với chính sách Hướng Nam; Australia cũng đưa ra chính sách Hướng Á. Ngoài ra, các nước bên ngoài nhưng có sự quan tâm và ảnh hưởng lớn đến khu vực
Có thể bạn quan tâm!
- Những Khác Biệt Về Bản Sắc Và Lợi Ích Riêng Tác Động Tới Quan Hệ Việt Nam - Ấn Độ
- Đặc Trưng Quy Trình Hoạch Định Chính Sách Đối Ngoại Của Việt Nam Và Ấn Độ
- Nhận Xét Về Những Nhân Tố Chủ Yếu Tác Động Tới Quan Hệ Việt Nam - Ấn Độ Giai Đoạn 2007 - 2021
- Dự Báo Chiều Hướng Tác Động Của Những Nhân Tố Chủ Yếu Tới Quan Hệ Việt Nam - Ấn Độ Đến Năm 2027
- Các Kịch Bản Quan Hệ Việt Nam - Ấn Độ
- Những nhân tố tác động đến quan hệ Việt Nam - Ấn Độ từ năm 2007 đến nay - 20
Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.
như Nga cũng có chính sách Hướng Đông; EU với chính sách đầu tư và thương mại lớn thứ nhất và thứ hai tại khu vực [83].
Tuy nhiên, ASEAN cũng phải đối mặt với một số thách thức cả bên trong và bên ngoài, nổi lên là tác động tiêu cực từ cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung, sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn; sự đoàn kết, thống nhất nội khối ít nhiều chịu tác động tiêu cực từ những diễn biến mới này. Trong thời gian tới, uy tín và vai trò của ASEAN sẽ tùy thuộc nhiều vào sự đoàn kết nội khối, vai trò của các nước “dẫn dắt” cũng như khả năng thích nghi, ứng phó với tác động của cuộc cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn và suy thoái kinh tế toàn cầu. Cũng không thể không đề cập đến những tác động đến từ nhân tố Trung Quốc tới một số nước trong ASEAN như Campuchia, Lào, Myanmar gây nên bất đồng, thiếu đoàn kết trong nội khối, có nguy cơ ảnh hưởng tới một số nước ASEAN liên quan; những bất ổn về an ninh và phát triển của khu vực cũng như uy tín, vai trò của ASEAN trong các thể chế khu vực và với các đối tác ngoài khu vực. Ngoài ra, QUAD nếu hoạt động tích cực cũng đặt ASEAN trước thách thức trong việc duy trì vai trò trung tâm ở khu vực. Biển Đông trong thời gian tới vẫn tiếp tục nổi lên là một điểm nóng trung tâm trong khu vực với việc đẩy mạnh các hoạt động khẳng định chủ quyền của Trung Quốc, sự can dự của nhiều nước lớn.
Tại Nam Á, chính trị - an ninh tiếp tục là lĩnh vực thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế xét trên những biến động trong các năm 2019, 2020, trong đó vấn đề Kashmir và cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn tiếp tục là những nhân tố chính định hình xu hướng chính trị - an ninh của khu vực trong thời gian tới. Vấn đề Kashmir vẫn là nguy cơ chính có thể làm bùng phát xung đột giữa Ấn Độ - Pakistan, qua đó gây bất ổn tình hình khu vực, bởi vấn đề này thường xuyên chịu ảnh hưởng từ tình hình nội trị của Ấn Độ và Pakistan, vốn dự báo sẽ tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp.
Trong 5 năm tới, Nam Á tiếp tục đối mặt với nhiều vấn đề an ninh phi truyền thống như khủng bố, ly khai, đói nghèo, chênh lệch giàu - nghèo…Những vấn đề này cũng sẽ có tác động không nhỏ đến tình hình trị an và phát triển của khu vực. Cạnh tranh nước lớn ở khu vực Nam Á tiếp tục có những diễn biến mới, phức tạp và khó lường. Trong vòng xoáy tranh giành ảnh hưởng, Ấn Độ và Trung Quốc nổi lên là những nhân tố đóng vai trò chủ đạo. Trong bối cảnh Trung Quốc tiếp tục thách thức vị thế của Ấn Độ ở khu vực Nam Á thông qua việc mở rộng ảnh hưởng tại các nước trong khu vực và thúc đẩy các sáng kiến do Bắc Kinh dẫn dắt, thì có khả năng New Delhi sẽ có những động thái cứng rắn,
quyết liệt hơn với người láng giềng châu Á. Nguy cơ một cuộc chiến tranh hay đụng độ dai dẳng ở biên giới giữa hai nước sẽ không cao do chẳng bên nào mong muốn, bởi có thể sẽ khiến hai nền kinh tế hàng đầu khu vực thêm khó khăn sau những gì mà đại dịch Covid -19 mang lại. Điều này chính là nguyên nhân lý giải cho những động thái kiềm chế, thiện chí giảm căng thẳng và đồng ý rút bớt sự hiện diện quân sự tại khu vực biên giới của cả hai bên. Mặc dù vậy, cạnh tranh chiến lược giữa hai cường quốc Ấn - Trung sẽ còn chứng kiến những biến số mới trong thời gian tới. Đó có thể là sự tác động từ xu hướng tập hợp lực lượng do Mỹ và Trung Quốc dẫn dắt tại khu vực này.
Về cơ bản, đến năm 2027, nhân tố quốc tế và khu vực tiếp tục có những tác động quan trọng lên quan hệ Việt Nam - Ấn Độ. Nói cách khác, quan hệ Việt Nam - Ấn Độ đến năm 2027 sẽ vận động dưới tác động của (i) các xu hướng chính trong quan hệ quốc tế (xu hướng hòa bình, hợp tác, liên kết và phát triển; toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cùng những mặt trái; khủng hoảng kinh tế dưới tác động của đại dịch Covid-19; sự gia tăng và phát triển của các vấn đề an ninh truyền thống và phi truyền thống; sự phát triển mạnh mẽ của KH - CN và sự cạnh tranh địa - chiến lược tập trung tại hai khu vực trọng điểm là CA - TBD và ÂĐD - TBD); (ii) tập hợp lực lượng xoay quanh cấu trúc hợp tác và cạnh tranh Trung - Mỹ; (iii) những thách thức an ninh (chủ quyền) đến từ Trung Quốc.
3.2.2. Nhân tố bản sắc và lợi ích quốc gia
Trong thời gian tới, bên cạnh những bản sắc cũ đã định hình trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, thì nhân tố này cũng có những nét mới, thể hiện qua các khía cạnh của chính sách đối ngoại theo định hướng ngoại giao quốc gia tầm trung (Việt Nam) và cường quốc khu vực, có vị trí ngày càng tăng trên phạm vi toàn cầu (Ấn Độ).
3.2.2.1. Bản sắc và lợi ích quốc gia của Việt Nam
* Bản sắc quốc gia của Việt Nam
Hiện nay và trong thời gian tới, Việt Nam không còn được xem như một nước nhỏ, mà đã đạt nhiều tiêu chí của một nước tầm trung, nhất là chính sách đối ngoại. Theo Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội Quốc gia Việt Nam (NCIF) tại hội thảo “Kinh tế Việt Nam trong trung hạn 2021 - 2025, phục hồi và tăng tốc”, trong giai đoạn 2021 - 2025, tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm của Việt Nam sẽ đạt từ 6,3% đến 6,8%/năm; kinh tế vĩ mô về cơ bản ổn định, lạm phát ở mức 3,5 - 4,5%/năm. Nhiều chuyên gia kinh tế nhìn nhận đây là tốc độ tăng trưởng ấn tượng trong bối cảnh có nhiều bất định bởi dịch bệnh. Năng
suất lao động của Việt Nam trong thời gian tới được cải thiện hơn với tốc độ tăng khoảng 6,3%/năm. Với kết quả tăng trưởng này, đến năm 2025, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt khoảng 4.688 USD, đưa Việt Nam gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình cao.
Với dân số thứ 15, quy mô kinh tế trong nhóm 35 nước phát triển nhất (dự báo sẽ là trong nhóm 30 trong 5 -10 năm tới), có năng lực đáng kể về quốc phòng - an ninh, đối ngoại, chính trị - xã hội ổn định, kinh tế tăng trưởng nhanh, Việt Nam có thể tự tin để vươn tới các mục tiêu táo bạo hơn. Việc tham gia kiến tạo luật chơi trong ASEAN hay Liên hợp quốc tới đây có thể được nhìn nhận qua lăng kính đó.
Trong 5-10 năm tới, chính sách đối ngoại Việt Nam sẽ được hoạch định và triển khai tương xứng với tầm mức phát triển của đất nước cả về thực lực và vị thế. Đó là sự kiên trì, nhất quán, coi trọng các giá trị chuẩn mực trong ứng xử như hòa bình, đối thoại, bình đẳng, đi kèm với sự kiên quyết khi cần thiết cũng như thái độ chủ động, tích cực, có trách nhiệm, sẵn sàng đấu tranh để bảo vệ những lợi ích chính đáng. Hai học giả Rory Medcalf và Raja Mohan khuyến nghị các nước tầm trung khu vực nên tăng cường hợp tác để giảm thiểu những tác động không thuận của cạnh tranh Mỹ - Trung. Theo đó, Ấn Độ, Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Indonesia và Việt Nam được kỳ vọng sẽ tăng cường phối hợp với nhau, đề xuất cải cách các định chế quốc tế theo hướng dân chủ hóa, phản ánh tốt hơn, quyền, nghĩa vụ và lợi ích của các nước tầm trung [121].
* Lợi ích quốc gia của Việt Nam
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030, trong đó có định hướng về đối ngoại. Cụ thể: “Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam…Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên” [43, tr.79].
Đại hội XIII xác định rõ mục tiêu trọng yếu trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam là bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp
quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Trên cơ sở định hướng về mục tiêu đối ngoại của ĐCS, có thể xác định lợi ích quốc gia của Việt Nam trong thời gian tới sẽ tiếp tục tập trung trên ba phương diện chính là phát triển kinh tế, ảnh hưởng và an ninh. Ba mảng lợi ích này có tác động qua lại, tương hỗ nhau, trong đó ưu tiên hơn cho lợi ích kinh tế nhằm hướng tới các mục tiêu cụ thể:
(i) Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.
(ii) Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: là nước đang phát triển, có nền công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.
(iii) Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam DCCH nay là Cộng hòa XHCN Việt Nam: trở thành nước phát triển, thu nhập cao [43].
Lợi ích an ninh của Việt Nam trong giai đoạn 2022 - 2027 được xác định trên cơ sở tiếp nối những giai đoạn trước và bổ sung thêm nội hàm mới, cụ thể:
(i) bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; (ii) bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; (iii) giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh kinh tế, an ninh mạng, an ninh con người, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương. Chủ trương của Việt Nam để đảm bảo lợi ích an ninh là tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những nhân tố bất lợi, nhất là những nhân tố có thể gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường, hòa bình, ổn định để phát triển đất nước [43].
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng ngày nay, vấn đề an ninh quốc gia cần được hiểu một cách toàn diện hơn, rộng hơn, sâu hơn, không chỉ có các vấn đề an ninh chính trị, quân sự truyền thống mà còn bao quát cả những vấn đề an ninh phi truyền thống. Lần đầu tiên xác định “an ninh con người”, bảo vệ “an ninh con người” nhằm cụ thể hóa các tư tưởng lập hiến đã nêu trong Hiến pháp 2013 và trở thành các mục tiêu, định hướng phát triển đất nước từ năm 2021 đến 2025, 2030 và tầm nhìn đến năm 2045.
Về lợi ích ảnh hưởng, đại hội XIII chủ trương: Việt Nam tiếp tục kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực, hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân tộc. Đây là nội dung hết sức
quan trọng, xuyên suốt trong đường lối đối ngoại của Đảng thời kỳ Đổi mới đến nay và dự báo sẽ tiếp tục trong thời gian tới. Độc lập, tự chủ vừa là mục tiêu, vừa là nền tảng của đối ngoại Việt Nam. Độc lập, tự chủ giúp đất nước hội nhập quốc tế sâu, rộng, toàn diện và hiệu quả, phát huy đầy đủ thế mạnh, phục vụ lợi ích quốc gia - dân tộc, đồng thời xử lý được các mối quan hệ quốc tế phức tạp trong môi trường đầy bất định, khó lường với nhiều cơ hội và thách thức đan xen. Hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng nghĩa là hội nhập đầy đủ trên các lĩnh vực, các tầng nấc khác nhau với mức độ tham gia, đóng góp thực chất hơn, cam kết và đan xen lợi ích cao hơn. “Nâng cao vị thế và uy tín đất nước” thông qua phát huy vai trò nòng cốt, dẫn dắt, hòa giải, đảm nhận tốt các trọng trách trong khu vực và quốc tế, đóng góp tích cực, có trách nhiệm vào quan tâm chung của thế giới. Bên cạnh đó, việc tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác thông tin đối ngoại, bảo hộ công dân, ngoại giao văn hóa, triển khai toàn diện và mạnh mẽ hơn công tác người Việt Nam ở nước ngoài cũng góp phần quan trọng nâng cao hình ảnh, vị thế và uy tín đất nước.
Từ đó, có thể suy ra nội hàm của lợi ích ảnh hưởng gồm: (i) xây dựng bản sắc/hình ảnh Việt Nam với những thay đổi và thành tựu mới trong mọi lĩnh vực;
(ii) nâng cao vai trò, tiếng nói, uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới;
(iii) nâng cao vị trí, giá trị chiến lược của Việt Nam trong chính sách của các nước lớn và các nước đối tác chủ chốt của Việt Nam.
3.2.2.2. Bản sắc và lợi ích quốc gia của Ấn Độ
* Bản sắc quốc gia của Ấn Độ
Trong thời gian tới, Ấn Độ tiếp tục là một quốc gia mà đa số người dân sống ở các vùng nông thôn, dân số thành thị hóa mỗi năm chỉ chiếm 0,5%. Đến năm 2030, Ấn Độ sẽ vẫn còn khoảng 60% là nông thôn so với 66% hiện nay. Tỷ lệ đói nghèo giảm xuống, nhưng Ấn Độ lại đối mặt với tình trạng chênh lệch giàu - nghèo có xu hướng tăng. Đây cũng là nguy cơ tiềm ẩn cho khủng bố, xung đột, gây bất ổn an ninh cho quốc gia này. Về nhân khẩu học, trong thời gian tới, Ấn Độ được nhìn nhận là quốc gia trẻ so với các đối thủ cạnh tranh như Trung Quốc và Mỹ. Độ tuổi trung bình của người dân Ấn Độ là 31, trong khi Trung Quốc và Mỹ có độ tuổi trung bình là 40 trở lên. Do đó, Ấn Độ tiếp tục là một quốc gia có lực lượng lao động trẻ dồi dào trong thời gian tới [148].
Với tham vọng trở thành quốc gia lãnh đạo khu vực, có vị trí xứng đáng trên thế giới, cùng với sự gia tăng sức mạnh cứng (kinh tế, quân sự…) và sức mạnh mềm, Ấn Độ sẽ từng bước định hình bản sắc của một cường quốc mới,
một quyền lực mới trong quan hệ quốc tế. Tuy sức mạnh quốc gia chưa thể bằng Mỹ hay Trung Quốc, nhưng sẽ định hình là một cường quốc toàn cầu có vai trò quan trọng trong định hình cục diện khu vực và thế giới. Đến năm 2030, Ấn Độ có triển vọng vươn ra ngoài phạm vi khu vực Nam Á và Ấn Độ Dương để trở thành một nước lớn có sức mạnh tổng hợp xếp thứ hạng cao ở châu Á và có vai trò quan trọng tại CA-TBD. Đến năm 2030, Ấn Độ được dự đoán có thể trở thành cường quốc kinh tế đang lên của thế giới như Trung Quốc hiện nay. Với tư cách là cường quốc kinh tế lớn nhất thế giới, Trung Quốc dự kiến sẽ vẫn dẫn trước Ấn Độ, nhưng khoảng cách có thể bắt đầu thu hẹp vào năm 2030. Ấn Độ được dự báo sẽ phát triển hơn Nhật Bản, Đức và trở thành nền kinh tế thứ ba thế giới [225].
Nếu Ấn Độ liên minh với Mỹ và Nhật Bản sẽ quy tụ được 29% tổng sản phẩm toàn cầu, vượt qua mức 20% của Trung Quốc và 23% của Trung Quốc và Nga cộng lại, trong khi hai cường quốc Mỹ và Nhật Bản nếu thiếu Ấn Độ thì có lợi thế không đáng kể [132]. Từ đó, nhận thức về vai trò, trách nhiệm của quốc gia Nam Á này trong việc tạo nên những luật chơi mới trong quan hệ quốc tế sẽ gia tăng đáng kể. Theo đó, Ấn Độ có thể có những phản ứng, hành động cứng rắn hơn trong việc ứng phó với những vấn đề bất ổn về an ninh hiện tồn của quốc gia mình và can dự nhiều hơn vào các vấn đề chính trị, an ninh, kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Nếu trước đây Ấn Độ thường đóng vai người quan sát trong các vấn đề tranh chấp quốc tế, đặc biệt ở những nơi nằm ngoài khu vực “lợi ích cốt lõi” truyền thống của mình là khu vực Nam Á và Ấn Độ Dương, thì tới đây Ấn Độ có khả năng sẽ bộc lộ quan điểm/thái độ rõ ràng, mạnh mẽ hơn.
* Lợi ích quốc gia của Ấn Độ
Đến năm 2027, mục tiêu đối ngoại của Ấn Độ có khả năng sẽ không thay đổi cho đến khi Ấn Độ trở thành cường quốc kinh tế thế giới, có thể so sánh với Trung Quốc và Mỹ. Đó là thúc đẩy sự phát triển kinh tế, trở thành quốc gia lãnh đạo khu vực, nâng cao tầm ảnh hưởng toàn cầu và bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia [15, tr.209]. Tham vọng trở thành quốc gia lãnh đạo trên thế giới, chứ không chỉ là “lực lượng cân bằng” sẽ tác động lớn đến ưu tiên trong chính sách của Ấn Độ. Thêm vào đó, quá trình trỗi dậy của Trung Quốc về kinh tế, quân sự và chính trị khiến toàn bộ việc hoạch định, thực thi chính sách đối ngoại luôn phải tính đến việc kiềm chế, cạnh tranh chiến lược với Trung Quốc. Từ mục tiêu đối ngoại đó, có thể đi tới dự báo lợi ích quốc gia ưu tiên hàng đầu của Ấn Độ chính là lợi ích kinh tế. Kinh tế là nhân tố quyết định để tăng cường sức mạnh