chiến tranh, bạo lực. Sự độc lập trong việc ra quyết định và quyền tự chủ chiến lược là những đặc điểm quan trọng khác trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ. Do đó, Ấn Độ tin tưởng vào quan hệ đối tác hơn là các liên minh, đặc biệt là các liên minh quân sự.
Ấn Độ là quốc gia tích cực ủng hộ và vận động cải tổ Liên hợp quốc. Vào tháng 10 năm 2012, trong cuộc tranh luận chung của Đại hội đồng Liên hợp quốc lần thứ 67, Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ S.M. Krishna kêu gọi cải tổ HĐBA Liên hợp quốc để phù hợp với thực tế của tình hình quốc tế nhằm đáp ứng thỏa đáng những thách thức toàn cầu đang nổi lên. Ấn Độ đóng một vai trò quan trọng tại Liên hợp quốc trong chiến dịch vận động cho một trật tự kinh tế quốc tế bình đẳng hơn [224]. Ấn Độ được các nước trong Liên hợp quốc bỏ phiếu tín nhiệm là thành viên không thường trực HĐBA Liên hợp quốc trong bảy nhiệm kỳ và tiếp tục được bầu vào nhiệm kỳ 2021-2022. Ấn Độ tham gia hơn 49 sứ mệnh của Liên hợp quốc, là nước gửi nhiều quân nhất (195.000 quân) cho Hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc (UNPKO). Trong các cuộc tranh luận về khủng hoảng ở Libya, Syria, Crimea/Ukraine…, Ấn Độ thể hiện quan điểm “không liên kết” truyền thống của mình một cách khéo léo để không liên kết với phương Tây và xa lánh Nga, Trung Quốc hoặc ngược lại. Hiện nay, Ấn Độ đang thúc đẩy việc trở thành thành viên thường trực HĐBA Liên hợp quốc nếu tổ chức này cải tổ, phản ánh mong muốn gia tăng vị thế từ cường quốc tầm trung lên cường quốc thế giới.
Do tiềm lực kinh tế ngày càng gia tăng, nên Ấn Độ có vai trò quan trọng trong các tổ chức kinh tế quốc tế cũng như có tiếng nói trong các cơ chế an ninh, chính trị như Phong trào Không Liên kết, SAARC, WTO, G20… Ấn Độ coi trọng hợp tác với các nền kinh tế mới nổi, tích cực tham gia xây dựng các cơ chế hợp tác đa phương. Ấn Độ, Trung Quốc và Nga đã thiết lập một cơ chế hợp tác ba bên. Ấn Độ, Trung Quốc, Nga cùng với Brazil và Nam Phi đã hình thành nên BRICS. Trong cả hai cơ chế, cùng với các quốc gia thành viên khác, Ấn Độ tích cực thúc đẩy quá trình đa cực hóa và dân chủ hóa quan hệ quốc tế, bảo vệ quyền và lợi ích của Ấn Độ và các nước đang phát triển. Ấn Độ phối hợp với các nước đang phát triển thông qua các cơ chế như SCO, MGC v.v để ứng phó với những thách thức của biến đổi khí hậu, khủng bố, an ninh năng lượng…
Trong bối cảnh bất ổn của khu vực/thế giới, Ấn Độ nổi lên là một quốc gia “trỗi dậy hòa bình, ôn hòa”. Hoạt động ngoại giao của Ấn Độ được mở rộng mạnh mẽ trên khắp các châu lục. Hoạt động tiếp cận ngoại giao trên phạm vi
rộng này nhấn mạnh cam kết của Chính phủ Ấn Độ trong việc xây dựng mối quan hệ với các quốc gia theo nguyên tắc “Vasudhaiva Kutumbakam”, tức là đối xử với toàn bộ thế giới như đối với gia đình, điều này phản ánh tình yêu, lòng vị tha, chia sẻ trách nhiệm và sự quan tâm…[100]. Ấn Độ coi trọng luật pháp quốc tế, nguyên tắc ứng xử, các giá trị có tính chuẩn tắc, phản đối chủ nghĩa áp đặt, đơn phương. Ví dụ liên quan đến các tranh chấp ở Biển Đông, nước này đưa ra các tuyên bố về việc các bên cần tôn trọng chủ quyền biển, đảo của các nước trong khu vực; tôn trọng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Biển của Liên hợp quốc (UNCLOS 1982). Hình ảnh Ấn Độ với tư cách là một quốc gia yêu chuộng hòa bình đã tạo được sự tin tưởng/tín nhiệm cho nước này ở cấp độ quốc tế: “Ấn Độ không đe dọa ai và là bạn bè với nhiều nước” [116].
* Tư tưởng nước lớn trong văn hóa chính trị Ấn Độ
Ấn Độ là một cường quốc có ý thức mạnh mẽ về địa vị nước lớn với một nền văn minh vĩ đại. Vị thế đang nổi lên của Ấn Độ trong thế kỷ XXI đã kích hoạt một định nghĩa mới về hình ảnh của quốc gia này, dẫn đến sự tin tưởng ngày càng lớn vào vai trò chính trị mới của mình. Ấn Độ ngày càng sẵn sàng chịu trách nhiệm nhiều hơn trong quan hệ quốc tế, tích cực tham gia các tổ chức và hiệp ước quốc tế, không chỉ dựa trên lập luận về quyền tự trị để bảo vệ Ấn Độ khỏi ảnh hưởng từ bên ngoài. Karl Deutsch cho rằng, Ấn Độ là một trong những quốc gia có nền chính trị ổn định và tuân thủ pháp luật. Ấn Độ “có phương thức đặc biệt về tổ chức xã hội, phương thức này không những ảnh hưởng đến sự nhìn nhận của Ấn Độ đối với thế giới, mà cũng ảnh hưởng đến cách nhìn nhận của thế giới đối với Ấn Độ” [145]. Trong quan hệ quốc tế, vai trò của Ấn Độ phần lớn là tích cực, tin cậy. “Hình ảnh tương đối trung lập, không gây đe dọa khiến Ấn Độ trở thành cường quốc hấp dẫn nhất đối với các quốc gia đang tìm kiếm phương thức để có thể tự chủ, tránh khỏi các tác động của cuộc đối đầu giữa Mỹ và Trung Quốc trong tương lai và không muốn phải đối đầu với một trong hai siêu cường này” [23]. Bản sắc này của Ấn Độ được thể hiện trên một số phương diện sau:
Thứ nhất, Ấn Độ là quốc gia có diện tích lớn nhất ở Nam Á (3.287.590 km²), bao trùm phần lớn tiểu lục địa Ấn Độ, có bờ biển dài 7.516 km, phần lớn nằm ở bán đảo Nam Á vươn ra Ấn Độ Dương, giáp biển ẢRập về phía Tây Nam, vịnh Bengan về phía Đông và Đông Nam. Ấn Độ có chung đường biên giới với tất cả các nước Nam Á, khiến nước này trở thành một liên kết vật lý quan trọng trong khu vực. 72% diện tích đất ở Nam Á do Ấn Độ chiếm giữ, 77 % dân số của khu vực sống ở Ấn Độ [206]. Về mặt địa lý, Ấn Độ luôn ý thức sâu sắc về vai trò
Có thể bạn quan tâm!
- Những nhân tố tác động đến quan hệ Việt Nam - Ấn Độ từ năm 2007 đến nay - 10
- Nhận Diện Bản Sắc Và Lợi Ích Quốc Gia Của Việt Nam
- Nhận Diện Bản Sắc Và Lợi Ích Quốc Gia Của Ấn Độ
- Những Khác Biệt Về Bản Sắc Và Lợi Ích Riêng Tác Động Tới Quan Hệ Việt Nam - Ấn Độ
- Đặc Trưng Quy Trình Hoạch Định Chính Sách Đối Ngoại Của Việt Nam Và Ấn Độ
- Nhận Xét Về Những Nhân Tố Chủ Yếu Tác Động Tới Quan Hệ Việt Nam - Ấn Độ Giai Đoạn 2007 - 2021
Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.
nòng cốt của mình trong khu vực do quy mô dân số, vị trí, lịch sử và các năng lực của Ấn Độ mang lại.
Thứ hai, Ấn Độ có mức tăng trưởng kinh tế đáng chú ý trong hai thập kỷ qua. Nền kinh tế Ấn Độ không chỉ đạt được sự tăng trưởng ổn định, mà còn là một quốc gia có tốc độ tăng trưởng GDP cao nhất thế giới. Năm 2005-2006: 9,5%, 2006-2007: 9,6%, 2007-2008: 9,3%. Do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu, năm 2008-2009 giảm xuống còn 6,8%. Tuy nhiên, nền kinh tế Ấn Độ đã nhanh chóng phục hồi với tốc độ gia tăng vào năm 2009-2010: 8% và năm 2010-2011: 8,6% [108]. Năm 2013, với mức tăng trưởng 4,3%, quy mô nền kinh tế Ấn Độ đã đạt mức 1.870 tỷ đô la, đứng thứ 10 thế giới. Từ năm 2015 đến năm 2018, tăng trưởng GDP của Ấn Độ được duy trì ở mức 7-7,6% [132]. Năm 2020, tốc độ tăng trưởng GDP: 5,1% [192]. Năm 2019, Ấn Độ đã vượt qua Anh và Pháp để trở thành nền kinh tế lớn thứ 5 thế giới, đạt 2,94 nghìn tỷ USD, đứng trên Anh và Pháp với GDP lần lượt là 2,83 và 2,71 nghìn tỷ USD. Hiện tại, Ấn Độ là nền kinh tế lớn thứ ba châu Á và thứ năm trên thế giới [157].
Về cơ cấu kinh tế, thế mạnh nổi trội của Ấn Độ là dịch vụ chiếm 60,7% GDP, đặc biệt dịch vụ phần mềm và tài chính rất phát triển, Ấn Độ đang chuyển dần sang nền kinh tế tri thức. Sức mạnh kinh tế là nền tảng của các dự báo quyền lực. Nếu tiếp tục tăng trưởng, Ấn Độ sẽ trở thành một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới và do đó không thể phủ nhận vị thế của nước này. Như C. Raja Mohan đã chỉ ra, vấn đề không phải là Ấn Độ muốn hay nên trở thành một cường quốc. Vấn đề là, nếu logic của tốc độ tăng trưởng kinh tế hiện tại vẫn tiếp tục tăng, các mối quan hệ của nước này với thế giới cũng sẽ có những thay đổi về cơ bản. Theo đó, địa vị của Ấn Độ trong hệ thống toàn cầu chắc chắn sẽ tăng, khiến nước này trở thành một cường quốc lớn [212]. Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh khẳng định: “Ngày nay, Ấn Độ đang ở một thời điểm lịch sử trong quỹ đạo phát triển của mình… Thế giới ngày nay đang nhìn vào Ấn Độ với sự quan tâm lớn khi câu chuyện về sự phát triển và vươn lên nổi bật của chúng ta trên trường quốc tế được mở ra” [198].
Thứ ba, năng lực quân sự, quốc phòng phát triển mạnh mẽ. Từ năm 1998, Ấn Độ trở thành nước có vũ khí hạt nhân, là nền tảng cơ bản cho sức mạnh quân sự của nước này. Ấn Độ đang mở rộng quan hệ quốc phòng ra ngoài khu vực, tạo vị thế cho vai trò ngày càng tăng trên phạm vi thế giới. Ngoài quan hệ truyền thống với Nga, Ấn Độ gia tăng mạnh mẽ quan hệ quốc phòng với các nước ASEAN, Trung Quốc, Mỹ và các đối tác khác ở châu Á. Ấn Độ được xếp một
trong mười nước có lực lượng quân sự mạnh nhất, lực lượng vũ trang lớn thứ tư và chi tiêu quân sự cao thứ năm trên thế giới [132, tr.48]. Ấn Độ đã chế tạo thành công các loại tàu chiến hiện đại nhất, xe tăng lội nước, xe bọc thép, máy bay chiến đấu (Dakota, MicG-21…), các loại thiết bị xe tăng, máy bay, tàu sân bay… Lực lượng Hải quân Ấn Độ đứng thứ năm trên thế giới về số nhân lực, có khả năng hoạt động ở vùng nước sâu, là một trong những lực lượng hải quân mạnh nhất khu vực, hiện đang duy trì sự hiện diện lớn thứ hai ở Ấn Độ Dương (chỉ sau Mỹ). Lực lượng không quân Ấn Độ xếp thứ tư trên thế giới. Ấn Độ đã thiết kế các máy bay riêng bao gồm những máy bay chiến đấu thế hệ thứ tư. Ấn Độ và Nga hiện đang lên kế hoạch thiết kế máy bay thế hệ thứ năm. Về tiềm lực sức mạnh hạt nhân, năm 2012, Ấn Độ chính thức trở thành quốc gia thứ sáu trên thế giới sở hữu tàu ngầm hạt nhân khi thuê lại tàu ngầm hạt nhân thuộc lớp Akula của Nga. Quân đội Ấn Độ sở hữu một số loại vũ khí hạt nhân và chủ yếu được trang bị cho các tên lửa và các máy bay chiến đấu [129].
Thứ tư, Ấn Độ luôn quan tâm đẩy mạnh phát triển và hợp tác KH-CN. KH- CN đang trở thành một lợi thế cạnh tranh của Ấn Độ trong quá trình hội nhập, đồng thời là điểm hấp dẫn trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ đối với nhiều quốc gia trên thế giới. Chính phủ Ấn Độ ưu tiên tập trung vào những mũi nhọn chiến lược như CNTT, công nghệ sinh học, nghiên cứu không gian, năng lượng hạt nhân để phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh, thực hiện hóa ước mơ trở thành một trong những cường quốc kinh tế lớn nhất thế giới vào thế kỷ XXI. Một số ngành KH-CN của Ấn Độ (hạt nhân, nghiên cứu vũ trụ, CNTT, công nghệ sinh học, hóa chất, dược phẩm, hải dương học, thủy tinh lỏng, siêu dẫn, công nghệ nano, năng lượng mới...) ở trình độ ngang với các nước phát triển. Tháng 10/2008, Ấn Độ là nước thứ ba ở châu Á phóng tàu vũ trụ không người lái lên mặt trăng.
Thứ năm, nhờ sức mạnh tổng hợp quốc gia được nâng cao, nên Ấn Độ ngày càng thể hiện vị thế, vai trò của mình tại các tổ chức, diễn đàn đa phương của khu vực và thế giới. Ấn Độ đang nỗ lực vận động để trở thành Ủy viên thường trực HĐBA Liên hợp quốc trong xu thế cải tổ cơ chế này. Ngoài ra, Ấn Độ còn nỗ lực tạo ra các thể chế đa phương mới song song với những thể chế đã có do các thể chế đa phương mới này sẽ giúp tăng cường chia sẻ quyền lực giữa các nước, cũng như phản ánh tốt hơn nhu cầu của các cường quốc mới nổi. Ngân hàng NDB do các nước thuộc BRICS thành lập là minh chứng cho thấy sự cân bằng này.
Thứ sáu, Ấn Độ là vùng đất có nền văn minh lớn, có sức hấp dẫn và ảnh hưởng tới nhiều nền văn hóa khác trong khu vực cũng như trên thế giới, trong đó
có Việt Nam. Đây là cơ sở, nguồn lực quan trọng để xây dựng sức mạnh mềm. Văn hóa đương đại của Ấn Độ cũng được chú ý trong ngoại giao quyền lực mềm của nước này. Thông qua những giá trị văn hóa truyền thống và hiện đại, Ấn Độ tăng cường tham dự vào cuộc chiến mở rộng quyền lực mềm trên thế giới trong bối cảnh thế kỷ XXI đang chứng kiến sự cạnh tranh về sức mạnh mềm giữa các quốc gia. Bên cạnh sức mạnh cứng, sức mạnh mềm của Ấn Độ cũng ngày càng phát huy vai trò quảng bá hình ảnh quốc gia cũng như gây ảnh hưởng trên phạm vi toàn thế giới. Bản thân sức mạnh mềm đang trở thành công cụ hữu ích, bổ sung cho sức mạnh cứng trong việc xác lập vị thế cường quốc mới nổi của Ấn Độ, đặc biệt dưới thời Thủ tướng Narenda Modi.
Trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, “dấu ấn toàn cầu của Ấn Độ đang tăng lên, từ một nước loay hoay tìm đường phát triển, quốc gia này đang trở thành một thế lực trỗi dậy toàn cầu; từ một nước với vị trí giữ cân bằng trở thành một quốc gia lãnh đạo, từ một nước tuân thủ các quy tắc trở thành một quốc gia đưa ra các quy tắc và thiết lập các chương trình nghị sự trên trường quốc tế” [149].
2.2.2.2. Lợi ích quốc gia của Ấn Độ
Về lợi ích kinh tế, là một quốc gia đang phát triển với dân số lớn thứ hai trên thế giới, Ấn Độ phải đối mặt với rất nhiều thách thức trong nước như đói nghèo, bất bình đẳng, thất nghiệp, giáo dục, y tế, nhà ở… Trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, lợi ích quốc gia quan trọng nhất đối với Ấn Độ là phát triển kinh tế để nâng cao đời sống của người dân và sức mạnh tổng hợp của đất nước. Thủ tướng Manmohan Singh nhấn mạnh: “Chính phủ của chúng tôi tin rằng các quá trình tạo ra của cải là điều cần thiết để chúng tôi đáp ứng cam kết xóa đói giảm nghèo… Chúng ta cần tăng trưởng nhanh hơn, vì ở mức thu nhập của chúng ta, chắc chắn chúng ta phải mở rộng cơ sở sản xuất nếu muốn cải thiện trên diện rộng các điều kiện vật chất cho cuộc sống của người dân” [237]. Người kế nhiệm - Thủ tướng Narenda Modi cũng có quan điểm: “Chính phủ này dành riêng cho người nghèo. Trong cuộc chiến chống đói nghèo, động lực chính của chúng tôi là trao quyền cho người nghèo và khiến họ tham gia tích cực vào lợi ích kinh tế” [223]. Ấn Độ chủ trương: “Tăng cường và mở rộng quan hệ với các nước lớn, các trung tâm kinh tế lớn của thế giới, các nước vừa và nhỏ trong khu vực nhằm tranh thủ nguồn vốn đầu tư và KH-CN từ các nước này để phát triển kinh tế” [215]. Ấn Độ đặt ưu tiên hàng đầu là phát triển kinh tế toàn diện, thúc đẩy tăng trưởng và tạo môi trường thân thiện, điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp. Ấn Độ chủ trương tăng cường mở rộng quan hệ với tất cả các nước, trong đó chú trọng quan hệ với các
nước lớn, các trung tâm kinh tế thế giới, các nước láng giềng phía Đông và các nước vừa và nhỏ trong khu vực nhằm tận dụng các nguồn lực bên ngoài cho phát triển kinh tế. Đồng thời, Ấn Độ cũng đẩy mạnh quá trình hội nhập khu vực và thế giới. Để đẩy nhanh quá trình hội nhập, Ấn Độ đã thực hiện một số biện pháp chính như: tích cực tham gia vào các diễn đàn hợp tác khu vực và quốc tế, tích cực phát huy vai trò lãnh đạo các quốc gia đang phát triển trên nhiều diễn đàn…
Về an ninh, lợi ích quốc gia của Ấn Độ được chia thành an ninh bên ngoài và bên trong. Về an ninh đối ngoại, lợi ích quốc gia của Ấn Độ chủ yếu bao gồm: bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ công dân, chống lại sự xâm lược và khủng bố từ bên ngoài, răn đe quân sự, đảm bảo hòa bình và ổn định trong khu vực lân cận và an ninh hàng hải [162, tr.75]. Như vậy, nhận thức của Ấn Độ về lợi ích an ninh đặt trọng tâm khu vực rất mạnh mẽ. Đối với Ấn Độ, toàn bộ Nam Á tạo thành một thực thể chiến lược, là phạm vi ảnh hưởng tự nhiên và hợp pháp. Do đó, Ấn Độ coi bất kỳ sự can thiệp nào từ bên ngoài và sự hiện diện của các cường quốc trong khu vực vừa là mối đe dọa đối với an ninh khu vực vừa là thách thức đối với vị thế ảnh hưởng của mình.
Quan niệm an ninh của Ấn Độ cũng bị ảnh hưởng bởi khái niệm “cân bằng quyền lực”. Hệ quả rõ ràng nhất của ý tưởng này là việc nâng cao sức mạnh quân sự. Như Thủ tướng Manmohan Singh đã chỉ rõ: “Nhưng thực tế là chúng ta đang sống trong một thế giới quan hệ quyền lực bất bình đẳng. Chúng ta đang sống trong một môi trường an ninh quốc tế không chắc chắn. Do đó, chúng ta có nghĩa vụ chuẩn bị sẵn sàng, đầy đủ về tiềm lực quốc phòng để đối phó với bất kỳ thách thức tiềm tàng nào đối với an ninh và lợi ích quốc gia quan trọng của chúng ta” [238]. Trong trường hợp của Ấn Độ, trọng tâm là hiện đại hóa quốc phòng với học thuyết hạt nhân bao trùm dựa trên khả năng răn đe tối thiểu và chính sách “không sử dụng trước”.
Đối với Ấn Độ, an ninh cũng kết nối chặt chẽ với độc lập và tự chủ, vốn là mục tiêu chính của cuộc đấu tranh theo chủ nghĩa dân tộc của Ấn Độ trước năm 1947. Mối quan tâm an ninh này được thể hiện ở việc Ấn Độ tuân thủ quyền tự chủ chiến lược trong chính sách đối ngoại của mình để tránh phụ thuộc vào các cường quốc phương Tây và tăng các lựa chọn chính sách trong Chiến tranh Lạnh, trong khi ở phạm vi đối nội, điều đó phản ánh sự nhấn mạnh vào “tự chủ”. Trong Chiến tranh Lạnh, quyền tự chủ chiến lược của Ấn Độ mang hình thức không liên kết dựa trên quan điểm cho rằng, Ấn Độ không có khả năng chống lại các thế lực bên ngoài và do đó lấy nguyên tắc “tự chủ” để bảo toàn. Quyền tự
chủ chiến lược vẫn gắn bó chặt chẽ trong tư duy chiến lược của Ấn Độ. Ấn Độ “sẽ không từ bỏ truyền thống độc lập của mình” và quyền tự chủ này “ăn sâu vào văn hóa chính trị của Ấn Độ, khó có thể dễ dàng thay đổi. Bất kỳ nước lớn nào hợp tác với Ấn Độ sẽ phải tính đến điều này trong bộ máy ra quyết định của Ấn Độ” [172, tr.164]. Vì vậy, quyền tự chủ của Ấn Độ vẫn là nền tảng của chính sách đối ngoại của Ấn Độ. Đó được coi là công cụ hợp lý để Ấn Độ bảo vệ lợi ích an ninh và nâng cao vị trí chiến lược của nước này trong quan hệ quốc tế.
Về vị thế, Ấn Độ là một cường quốc có ý thức về địa vị phi thường và một trong những nhiệm vụ không thể thiếu trong quá trình phát triển của Ấn Độ là được quốc tế công nhận vị thế của mình [211, tr.209-233]. Tuy nhiên, việc đạt được vị thế cường quốc chưa đầy đủ và chưa hoàn thiện do khả năng của Ấn Độ. Hoạt động kinh tế tích cực của Ấn Độ kể từ giữa những năm 1990 và tình trạng hạt nhân của nước này vào năm 1998 cùng với sức mạnh tổng hợp ngày càng gia tăng trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI đã thay đổi nhận thức của cộng đồng quốc tế về tiềm năng và mang lại niềm tin cho Ấn Độ. Trong bối cảnh đó, Ấn Độ bắt đầu đề cập đến việc tham gia và chịu trách nhiệm trên phạm vi toàn cầu. Với vị thế cường quốc đang lên, Ấn Độ sẽ ngày càng được kêu gọi đảm nhận nhiều trách nhiệm hơn. Trong hệ thống thế giới đang dần định hình theo hướng đa cực như hiện nay, cơ hội để Ấn Độ đóng những vai trò lớn hơn và đạt được địa vị cao hơn có xu hướng phụ thuộc nhiều hơn vào quyền lực thực tế của nước này. Do đó, để đảm bảo vị thế hiện tại và có thể đạt được vị thế cao hơn trong tương lai, Ấn Độ cần phải nâng cao sức mạnh quốc gia toàn diện của mình. Nếu không có cơ sở nội lực vững chắc, vai trò lãnh đạo của Ấn Độ trong các vấn đề quốc tế sẽ bị hạn chế.
2.2.3. Tác động của nhân tố bản sắc và lợi ích quốc gia tới quan hệ Việt Nam - Ấn Độ
2.2.3.1. Những tương đồng về bản sắc và lợi ích chung tác động tới quan hệ Việt Nam - Ấn Độ
Thứ nhất, sự tương đồng/gắn kết về địa lý, văn hóa (Phật giáo) và lịch sử là cơ sở, tiền đề củng cố niềm tin chính trị, thúc đẩy tình hữu nghị truyền thống vốn có giữa Việt Nam và Ấn Độ. Về địa lý, Việt Nam và Ấn Độ đều là các quốc gia châu Á, có đường bộ nối liền với Myanmar và đường biển kéo dài đến Indonesia và Thái Lan. Với đặc điểm chung là đường bờ biển dài, có bán đảo dọc theo đường biển chính nối liền Tây Á và Đông Á, đây được xem là một lợi thế quan trọng của hai nước khi có gần 2/3 chiều dài lãnh thổ giáp biển [34]. Ấn Độ là
quốc gia rộng lớn chiếm gần trọn cả vùng Nam Á, phần lớn nằm ở bán đảo Ấn Độ vươn ra Ấn Độ Dương, giáp biển Ảrập về phía Tây Nam, vịnh Bengan về phía Đông và Đông Nam. Do đó, Ấn Độ có vị trí địa - chính trị quan trọng ở châu Á nói riêng và trên thế giới nói chung, đồng thời vị trí này cũng tạo điều kiện thuận lợi cho nước này truyền bá và mở rộng ảnh hưởng văn hóa của mình cũng như giao lưu, tiếp xúc với các nền văn hóa khác. Những đặc điểm địa lý của Ấn Độ cũng có sự tương đồng với địa lý Việt Nam. Việt Nam cũng có vị trí địa - chính trị, địa - kinh tế quan trọng khi nằm trong khu vực Biển Đông. Hầu hết các tuyến hàng hải đều đi qua các vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia của Việt Nam. Vùng biển và ven biển Việt Nam nằm án ngữ trên con đường hàng hải và hàng không huyết mạch thông thương giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, giữa châu Âu, Trung Cận Đông với Trung Quốc, Nhật Bản và các nước trong khu vực.
Về văn hóa, gốc văn hóa Việt Nam ngoài vận động nội tại (các tộc người bản địa), gốc đã qua tiếp biến văn hóa, được ghép thêm những yếu tố văn hóa ngoại lai, chủ yếu là Trung Quốc, Ấn Độ và phương Tây (Pháp). Tiếp biến văn hóa với Trung Quốc mang tính liên tục, trực tiếp và thường qua đối đầu (chiến tranh, đô hộ), còn với Ấn Độ qua đối thoại (truyền giáo, buôn bán), thường gián tiếp và hòa bình. Ảnh hưởng lớn nhất của Ấn Độ là qua tôn giáo, nhất là Phật giáo [86]. Ấn Độ không có sự tiếp giáp trực tiếp về địa lý với Việt Nam, nhưng nền văn hóa Ấn Độ lại có ảnh hưởng sâu đậm đến văn hóa Việt Nam. Trên nhiều bình diện, văn hóa Ấn Độ “thẩm thấu” bằng nhiều hình thức và liên tục. Phật Giáo từ Ấn Độ du nhập vào Việt Nam khoảng đầu Công nguyên do nhà sư người Ấn Độ Mahajivaka truyền đạo theo đường biển [37]. Nhờ du nhập theo con đường hòa bình, chứa đựng những triết lý không mâu thuẫn với tín ngưỡng bản địa, Phật giáo đã nhanh chóng dung hòa hoặc thay thế tín ngưỡng bản địa. Qua thời gian du nhập mới mẻ ban đầu, các tôn giáo từ Ấn Độ nhanh chóng hòa nhập vào văn hóa và tín ngưỡng dân gian. Quá trình này đã tiếp biến và làm mềm hóa theo hướng thích ứng với thực thể địa phương qua hàng loạt các thời kỳ nhỏ như sơ truyền, xung đột, thay đổi, thích ứng, dung hợp và thấm sâu vào văn hóa Việt Nam.
Phật giáo du nhập từ Ấn Độ vào Việt Nam cũng đã trở thành tôn giáo và hệ tư tưởng ăn sâu, bám rễ vào quan niệm, đạo đức, lối sống của người Việt. Lấy Phật giáo làm hệ tư tưởng chủ đạo, người Việt có cách ứng xử hài hòa, khoan dung, bình đẳng với các tôn giáo, tư tưởng khác. Trong xu thế toàn cầu hóa, tinh thần Ấn Độ “về con người, vì con người” và “dung hòa, mềm dẻo, hòa bình” lại