Đặc Trưng Quy Trình Hoạch Định Chính Sách Đối Ngoại Của Việt Nam Và Ấn Độ


hai nước. Sự khác biệt này kết hợp với bản sắc và lợi ích quốc gia của mỗi nước sẽ ảnh hưởng tới tư duy, quan điểm, đường lối của ĐCS Việt Nam về quan hệ với Ấn Độ và tư duy, quan điểm, chính sách đối ngoại của Chính phủ/Thủ tướng Ấn Độ tới quan hệ với Việt Nam, từ đó tác động tới quan hệ hai nước giai đoạn 2007 - 2021.

2.3.1. Đặc trưng quy trình hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam và Ấn Độ

2.3.1.1. Việt Nam

Tại Việt Nam, cơ quan hoạch định chính sách đối ngoại cũng như các lĩnh vực khác là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng. ĐCS Việt Nam lãnh đạo toàn diện trong mọi lĩnh vực, bao gồm cả đối ngoại [73], [4]. Mọi quyết định và hoạt động đối ngoại, nhất là những vấn đề liên quan đến sự ổn định và phát triển của đất nước, đến độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và danh dự quốc gia được tập trung dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị và Ban Bí thư. Dựa trên mục tiêu tổng thể của đất nước trong từng thời kỳ, mục tiêu đối ngoại được đưa ra phù hợp với bối cảnh quốc tế, khu vực và tình hình trong nước. Từ đó, chính sách, quyết sách, nghị quyết sẽ cụ thể hóa các mục tiêu, đồng thời được thường xuyên điều chỉnh, bổ sung, cập nhật để thích ứng, phù hợp về lý luận và thực tiễn.

Được tổ chức 5 năm một lần, Đại hội Đảng là hoạt động hoạch định chính sách tập thể lớn nhất ở Việt Nam. Tại Đại hội, các đại biểu thảo luận và thông qua các chiến lược an ninh quốc gia, chính sách đối ngoại, chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như lựa chọn nhân sự cấp cao cho nhiệm kỳ 5 năm tiếp theo và trong các năm tới. Do đó, chính sách đối ngoại được quyết định tại Đại hội có hàm ý to lớn về mặt chính sách [251]. Đó chính là kết tinh sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, kiến nghị của các cơ quan tham mưu hoạch định chính sách, những bài học kinh nghiệm từ thực tế triển khai chính sách đối ngoại từ nhiệm kỳ trước. Hệ thống các cơ quan tham mưu chính sách đối ngoại ở Việt Nam chủ yếu gồm các cơ quan như Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Ban Đối ngoại Trung ương Đảng, Ủy ban Đối ngoại Quốc hội... Trong đó, Bộ Ngoại giao là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đối ngoại [25]. Bộ Ngoại giao có chức năng tổng hợp, tham mưu, kiến nghị chính sách, đồng thời cũng là cơ quan thực thi chính sách và quản lý các hoạt động đối ngoại.

Mọi hoạt động đối ngoại đều phải được xem xét trên quan điểm tổng thể, lấy lợi ích cơ bản và lâu dài của quốc gia dân tộc làm nền tảng, tính đến sự tác


động qua lại lẫn nhau giữa chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, văn hoá, KH- KT giữa lợi ích quốc gia và đoàn kết quốc tế; giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân. Hoạt động đối ngoại được thực hiện theo chương trình, kế hoạch được cấp lãnh đạo có thẩm quyền quyết định trong một cơ chế và quy trình làm việc chặt chẽ, bảo đảm sự thống nhất trong nhận thức và hành động giữa các cơ quan chức năng. Công tác quản lý đối ngoại được tiến hành nhằm bảo đảm sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại trên cơ sở phân định chức năng, nhiệm vụ về đối ngoại giữa các cơ quan Đảng và Nhà nước, giữa Trung ương và địa phương [73, tr.64].

2.3.1.2. Ấn Độ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.

Do bản chất hệ thống chính trị của Ấn Độ, việc hoạch định chính sách đối ngoại của nước này chịu ảnh hưởng lớn bởi Thủ tướng Chính phủ, các quan chức trong Bộ Ngoại giao (MEA), các phương tiện truyền thông cùng với quan điểm và hệ tư tưởng của các đảng phái chính trị khác nhau [152, tr.82].

Việc ra quyết sách đối ngoại của Ấn Độ thường có đặc điểm là được cá nhân hóa. Các Bộ liên quan đến đối ngoại của Ấn Độ bao gồm Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Bộ Thương mại và Tài chính… Nhìn chung, quyền ra quyết định thuộc về Thủ tướng Chính phủ và ở một mức độ thấp hơn là Bộ trưởng Ngoại giao. Trong những năm gần đây, Văn phòng Thủ tướng Chính phủ (PMO) đã xây dựng một đội ngũ nhân viên để tiến hành phối hợp với MEA, nhưng có nhiều quyền lực hơn MEA [208]. Các chủ thể hoạch định chính sách đối ngoại của Ấn Độ cũng trở nên đa dạng hơn. Trước đây, MEA và PMO có ảnh hưởng mạnh mẽ, nhưng bây giờ Bộ Quốc phòng (MOD) cũng như các Bộ khác như Bộ Tài chính, Thương mại và Công nghiệp cũng có ảnh hưởng đến quy trình này. Hội đồng an ninh Quốc gia (NSC) và Cố vấn An ninh Quốc gia (NSA) cũng là những chủ thể tham gia vào quy trình hoạch định chính sách đối ngoại của Ấn Độ.

Những nhân tố tác động đến quan hệ Việt Nam - Ấn Độ từ năm 2007 đến nay - 15

Một hiện tượng đáng chú ý trong những năm qua trong quá trình ra quyết định đối ngoại ở Ấn Độ là vai trò ngày càng được khẳng định của các đảng chính trị cấp khu vực (cấp bang) [236]. Chính trị liên minh đã trở thành một chuẩn mực phổ biến ở Ấn Độ và các đảng cấp khu vực là cần thiết cho sự tồn tại của các Chính phủ liên minh. Vì vậy, họ có thể tác động đến chính sách đối ngoại phù hợp với thế giới quan của họ.

Việc hoạch định chính sách đối ngoại của Ấn Độ cũng bị cản trở do sự phối hợp chưa hiệu quả trong các cơ quan liên quan đến đối ngoại của Ấn Độ. Thông


thường, các Bộ đưa ra quyết định quan trọng về các vấn đề nhạy cảm ảnh hưởng đến thực hiện chính sách đối ngoại của Ấn Độ, mà không tham khảo ý kiến của MEA hay thiếu sự phối hợp chiến lược giữa MEA và MOD, nhất là trong các vấn đề quân sự, quốc phòng - an ninh [183]. Các nhà hoạch định chính sách ở Ấn Độ có xu hướng nhạy cảm với các động thái của dư luận xã hội. Dù truyền thông và dư luận xã hội không đóng vai trò quyết định, nhưng những chủ thể này tạo nên những áp lực và trở ngại đối với các nhà hoạch định chính sách. Ở Ấn Độ, dư luận ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hoạch định chính sách đối ngoại. Các think-tank, viện nghiên cứu, báo chí, truyền thông … có các mối liên hệ khác nhau với nhân viên Chính phủ và các chính trị gia. Những chủ thể này có thể tham gia vào quy trình hoạch định chính sách của Chính phủ theo hai cách: (i) trực tiếp tư vấn cho các nhà hoạch định chính sách; (ii) định hướng dư luận và tạo áp lực lên Chính phủ. Hơn nữa, tại Ấn Độ, mối liên hệ giữa dư luận và chính sách đối ngoại được hậu thuẫn bởi tốc độ phát triển của viễn thông, internet, phương tiện thông tin đại chúng và khảo sát, thăm dò dư luận.

2.3.2. Tác động của nhân tố lãnh đạo tới quan hệ Việt Nam - Ấn Độ

2.3.2.1. Tác động tới tư duy, quan điểm và đường lối đối ngoại của Việt Nam đối với Ấn Độ

Chính sách đối ngoại là một bộ phận cấu thành đường lối cách mạng của ĐCS Việt Nam, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chính sách đối ngoại xuất phát từ nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam nói chung và của từng thời kỳ nói riêng. Việc hoạch định chính sách đối ngoại bắt nguồn từ quan điểm quốc tế của Đảng, đặc trưng truyền thống dân tộc và thực tiễn yêu cầu cách mạng trong từng thời kỳ [94]. Trong bối cảnh tình hình quốc tế, khu vực diễn ra nhanh chóng với nhiều diễn biến khó lường, ĐCS Việt Nam khẳng định rõ nền tảng chính sách đối ngoại của Việt Nam là lợi ích quốc gia dân tộc.

Để theo đuổi các lợi ích quốc gia dân tộc, Ấn Độ đóng vai trò quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Vị trí, vai trò của Ấn Độ được thể hiện ở những điểm sau: (i) Ấn Độ là quốc gia có quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời, là người bạn thủy chung, tin cậy và chưa bao giờ là mối đe dọa đối với Việt Nam; (ii) Ấn Độ có vị trí địa - chiến lược rất quan trọng, là nước lớn ở châu Á, có vai trò lớn ở Nam Á và có ảnh hưởng nhất định ở ĐNA. Do đó, thúc đẩy quan hệ với Ấn Độ sẽ giúp tăng cường vai trò và vị thế của Việt Nam ở khu vực ĐNA nói riêng và châu Á nói chung; (iii) Ấn Độ có thực lực và tiềm năng lớn, đang nổi lên mạnh mẽ cả về kinh tế, quân sự và vị thế để trở thành cường quốc châu


Á, từng bước vươn ra toàn cầu. Do đó, Ấn Độ có vai trò quan trọng đối với Việt Nam để tạo cân bằng và đan xen lợi ích giữa các nước lớn, đồng thời góp phần làm tăng vị thế của Việt Nam tại các cơ chế đa phương; (iv) Với tiềm lực quốc phòng mạnh, Ấn Độ có thể giúp Việt Nam nâng cao năng lực quốc phòng để bảo vệ tốt hơn chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, nhất là trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng có nhiều chính sách và hành động hung hăng tại Biển Đông; (v) Việt Nam cần vốn, trình độ KH-CN, năng lực quản lý và đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là CNTT, các sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp - những lĩnh vực mà Ấn Độ có thế mạnh. Việt Nam cũng sẽ có cơ hội xuất khẩu các hàng hóa nông sản, tiểu thủ công nghiệp sang Ấn Độ, đặc biệt là thâm nhập vào thị trường các bang Đông Bắc chậm phát triển. Trong nhận thức của Việt Nam về Ấn Độ, có thể thấy rõ hai hệ quy chiếu, đó là Ấn Độ vừa là một nước bạn bè truyền thống vừa là một nước lớn.

Theo đó, phát triển quan hệ với Ấn Độ là một định hướng quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Xuất phát từ mối quan hệ bạn bè truyền thống, thủy chung, từ đầu thế kỷ XXI với sự trỗi dậy mạnh mẽ của quốc gia này, Việt Nam đã có những điều chỉnh nhất định khi tiếp cận Ấn Độ như một nước lớn. Phát triển quan hệ với Ấn Độ góp phần giúp Việt Nam tạo được thế cân bằng với Trung Quốc, nâng cao vị thế trong chiến lược toàn cầu của Mỹ khi quan hệ Mỹ - Ấn ngày càng được cải thiện và xích lại gần nhau, tạo ra vị thế cao hơn trong quan hệ với các nước lớn/cường quốc tầm trung khác. Đây là lợi ích cốt lõi của Việt Nam trong quan hệ với Ấn Độ. Vì vậy, Việt Nam rất coi trọng việc phát triển mối quan hệ với quốc gia Nam Á này, vì Ấn Độ vừa là nước láng giềng trong khu vực vừa là cường quốc đang trỗi dậy vốn có quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác nhiều mặt với Việt Nam. Việt Nam coi Ấn Độ là nhân tố quan trọng trong chính sách cân bằng nước lớn của mình, vì thực tế Ấn Độ có đủ khả năng đóng vai trò cân bằng với các nước lớn [136, tr.47]. Ấn Độ được dự báo là đối thủ cạnh tranh trực tiếp với Trung Quốc ở khu vực trong tương lai [155, tr.47]. Trong chuyến thăm Ấn Độ năm 2010, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, Việt Nam luôn coi Ấn Độ là “nhân tố không thể thiếu trong điều kiện thế giới đang phát triển như hiện nay” [7].

Bên cạnh hướng tiếp cận Ấn Độ với tư cách là nước lớn, Việt Nam còn tiếp cận với tư cách là một nước bạn bè có quan hệ truyền thống, hữu nghị lâu đời. Chính sách đối ngoại nhất quán của Việt Nam là thúc đẩy quan hệ với các nước bạn bè truyền thống đi vào chiều sâu, ổn định và bền vững. Như Phó Thủ tướng


kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh phát biểu vào năm 2014: Việc thực hiện các quan hệ đối tác chiến lược và toàn diện đã theo lộ trình chủ động và tích cực, đặc biệt tập trung vào các nước bạn bè truyền thống là Nga và Ấn Độ, các nước láng giềng trong khu vực (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc) và các Các nước Châu Âu (Anh, Đức, Pháp) và các đối tác quan trọng khác [214].

2.3.2.2. Tác động tới tư duy, quan điểm và chính sách đối ngoại của Ấn Độ đối với Việt Nam

Các nhà lãnh đạo Ấn Độ, mà cụ thể ở đây là Thủ tướng Manmohan Singh (2004 - 2014) và Narenda Modi (2014 - nay) có ảnh hưởng đến việc ra quyết định đối ngoại thông qua ý tưởng, thế giới quan, nhận thức của họ. Ý tưởng/thế giới quan là niềm tin của các cá nhân về thực tế xã hội xác định các khả năng hành động, phản ánh các nguyên tắc đạo đức và xác định các mối quan hệ nhân quả. Hơn nữa, ý tưởng đóng vai trò như bản đồ chỉ đường để hướng dẫn hành vi [181]. Mặc dù các nhà lãnh đạo của Ấn Độ qua các thời kỳ từ các đảng phái khác nhau, nhưng luôn có sự tiếp nối và điều chỉnh chính sách của những người tiền nhiệm, tạo thành một sợi dây liền mạch với mục tiêu chung là vì lợi ích quốc gia dân tộc, vì một Ấn Độ phồn vinh. Tầng lớp tinh hoa này muốn một chính sách đối ngoại tương xứng với vai trò mới của Ấn Độ trên trường quốc tế và uy tín mà Ấn Độ nắm giữ. Tuy nhiên, phương hướng để đạt được lợi ích quốc gia lại phụ thuộc vào quan điểm chính trị cá nhân. Chính sách Hướng Đông/Hành động hướng Đông thể hiện rõ quan điểm của những người đứng đầu Chính phủ Ấn Độ về vai trò của ASEAN và các nước ĐNA, trong đó có Việt Nam. Chính sách Hướng Đông được Thủ tướng N. Rao thông qua đã được triển khai trong những năm qua và tiếp tục với những thay đổi qua các kỳ Thủ tướng.

Sau khi lên nắm quyền, Thủ tướng Manmohan Singh tiếp tục chính sách Hướng Đông. Về cơ bản, quan điểm Hướng Đông trong cách tiếp cận của Thủ tướng Manmohan Singh: “không đơn thuần là một chính sách kinh tế đối ngoại, mà còn là một bước chuyển hướng chiến lược trong cách nhìn nhận của Ấn Độ về thế giới và vị trí của Ấn Độ trong nền kinh tế toàn cầu đang phát triển. Trên tất cả là nỗ lực hướng tới các nước láng giềng có chung nền văn minh với chúng tôi ở ĐNA và Đông Á. Tôi luôn coi vận mệnh của Ấn Độ gắn với các nước này và nhất là ĐNA. Tôi nhắc lại cam kết của Ấn Độ trong việc cùng ASEAN và các nước Đông Á biến thế kỷ XXI thực sự là thế kỷ của châu Á” [167]. Trong hai nhiệm kỳ, Thủ tướng Manmohan Singh đã thực hiện chính sách đối ngoại thực


dụng, hòa bình, trung lập, không liên minh liên kết, mục tiêu hướng tới là những lợi ích kinh tế phục vụ cho sự phát triển thịnh vượng của Ấn Độ. Trong chính sách đối ngoại, Thủ tướng ưu tiên các mục tiêu kinh tế với tư cách là động lực và cũng là lợi ích quốc gia. Ông cho rằng, mục tiêu quan trọng nhất trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ là phải tạo ra một môi trường toàn cầu có lợi cho sự phát triển thịnh vượng của Ấn Độ. Chính sách đối ngoại của Thủ tướng Manmohan Singh đã xây dựng trên cơ sở nền tảng là tư tưởng đối ngoại từ các nhà lãnh đạo thời kỳ đấu tranh giành độc lập, đó là quan hệ tương tác giữa chính sách đối ngoại và khát vọng kinh tế của người dân Ấn Độ. Đối với Việt Nam, Thủ tướng Manmohan Singh cũng có những tình cảm đặc biệt: “Thuở nhỏ, tôi đã có may mắn được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Nehru. Tôi rất ngưỡng mộ đạo đức, tâm hồn và trí tuệ vĩ đại của hai nhà lãnh đạo. Tôi rất vui mừng khi chứng kiến quan hệ giữa hai đất nước chúng ta ngày càng được thắt chặt. Chính phủ Ấn Độ sẽ làm tất cả để xây dựng mối quan hệ chiến lược với Việt Nam” [51].

Mặc dù quan hệ Việt Nam - Ấn Độ đã bắt đầu trở nên sâu sắc hơn dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh, nhưng đến khi Thủ tướng Narenda Modi lên nắm quyền, quan hệ hai nước đã phát triển lên một tầng nấc mới - đối tác chiến lược toàn diện và hiệu quả hợp tác trở nên thực chất hơn. Chính sách Hướng Đông của Ấn Độ được điều chỉnh thành Hành động hướng Đông, khiến Việt Nam và Ấn Độ trở thành đối tác quan trọng của nhau trước những thách thức địa - chính trị chung. Chỉ trong vòng sáu tháng kể từ khi Thủ tướng Modi nhậm chức, Bộ trưởng Ngoại giao Sushma Swaraj đã thăm khu vực ĐNA ba lần: tới Myanmar, Singapore và Việt Nam. Trong chuyến thăm Singapore, Bộ trưởng khẳng định: “Hướng Đông không còn phù hợp, giờ đây chúng tôi cần Hành động hướng Đông” [15]. Thực tế cho thấy, rõ ràng đây là một bước tiến của Ấn Độ trong việc kết nối với các quốc gia ASEAN. Bằng cách đổi tên chính sách Hướng Đông sang Hành động hướng Đông, Thủ tướng Narendra Modi đã thể hiện rằng, ông sẽ chủ động và hành động có mục đích hơn những người tiền nhiệm. Đặc biệt, Thủ tướng Narendra Modi xác định lại thứ tự ưu tiên cho các mục tiêu đối ngoại, lấy mục tiêu kinh tế làm hàng đầu, cụ thể hóa các mục tiêu, xác định rõ khu vực trọng điểm và thể hiện tham vọng trở thành nước lớn - “nước lãnh đạo”. Điểm quan trọng trong sự điều chỉnh chính sách của Thủ tướng Narendra Modi là sự thay đổi mạnh mẽ trong tư duy “đa liên kết” và trong nhận thức về sức mạnh quốc gia để hướng tới xây dựng Ấn Độ trở thành một cường quốc toàn cầu, một


cực quan trọng trong xu hướng đa cực của hệ thống thế giới hiện nay. Dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng N. Modi, Ấn Độ đang trên hành trình tìm cách khẳng định lại sự vĩ đại trong lịch sử của mình.

Nếu trước đây, Ấn Độ thường đóng vai người quan sát trong các vấn đề tranh chấp quốc tế, đặc biệt ở những nơi nằm ngoài khu vực “lợi ích cốt lõi” truyền thống của mình là khu vực Nam Á và Ấn Độ Dương, thì trong giai đoạn Thủ tướng Narenda Modi nắm quyền đã có sự thay đổi theo hướng Ấn Độ thể hiện rõ quan điểm hơn. Kể từ khi Biển Đông trở thành một vấn đề mang tầm quốc tế tại các diễn đàn về an ninh ở khu vực CA - TBD do sự trỗi dậy của Trung Quốc với những hành xử ngày càng cứng rắn, mang tính đe dọa, thách thức tự do hàng hải và luật pháp quốc tế, Ấn Độ đã bộc lộ thái độ khá rõ ràng. Thứ nhất, Ấn Độ luôn khẳng định rõ lập trường nguyên tắc về tự do hàng hải, an ninh hàng hải và giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông theo quy định của luật pháp quốc tế (Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển UNCLOS 1982), phát triển một bộ quy tắc ứng xử và giải quyết tranh chấp thông qua đối thoại và các biện pháp hòa bình. Ấn Độ phản đối ý định của Trung Quốc lập vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên Biển Đông, vì không chỉ ảnh hưởng đến các lợi ích thương mại và chiến lược của Ấn Độ, mà còn vi phạm các nguyên tắc quốc tế về tự do hàng hải và hàng không. Thứ hai, Ấn Độ vẫn tiếp tục các hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí ở Biển Đông mặc dù có sự đe dọa, tranh chấp, lấn chiếm làm cho tình hình trên vùng biển này ngày càng căng thẳng. Tuy không phải là bên yêu sách chủ quyền với bất kỳ vùng nước nào trên Biển Đông, nhưng khu vực này đang ngày càng trở nên quan trọng đối với Ấn Độ. Vấn đề Biển Đông được đề cập trực tiếp trong chính sách Hành động hướng Đông cho thấy sự gia tăng can dự của Ấn Độ ở khu vực Đông Á và ĐNA nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược kép: vừa trở thành cường quốc nổi bật ở Đông Bắc Ấn Độ Dương, vừa đảm nhiệm vai trò chiến lược lớn hơn trong khu vực ĐNA và Thái Bình Dương [125].

Để thúc đẩy các sáng kiến liên kết văn hóa, văn minh trong lịch sử giữa Ấn Độ với các quốc gia ĐNA, trong đó có Việt Nam, Thủ tướng Narenda Modi chú trọng sử dụng quyền lực mềm. Quyền lực mềm là một công cụ của chính sách đối ngoại và văn hóa là một nguồn lực của quyền lực mềm nhằm kết nối Ấn Độ của hiện tại với quá khứ vốn là cái nôi văn minh của nhân loại. Khía cạnh văn hóa với việc Phật giáo xâm nhập vào Việt Nam từ mảnh đất khai sinh - Ấn Độ có tác động mạnh mẽ đến quan hệ Việt - Ấn. Việt Nam có một số lượng lớn Phật tử và nhiều người trong số họ đã đến thăm các thánh địa Phật giáo ở Ấn Độ. Vào tháng


10/2016, trong chuyến thăm chính thức Việt Nam, Thủ tướng N. Modi đã đến thăm một ngôi chùa tại Hà Nội và chia sẻ: “Một số người đến đây với mục tiêu chiến tranh. Chúng tôi đến đây với một thông điệp hòa bình đã trường tồn ” [75].

Có thể nói, tư duy chính trị và ưu tiên chính sách của các Thủ tướng Ấn Độ Manmonan Singh (2007 - 2014) và Narenda Modi (2014 - nay) là điều kiện quan trọng dẫn đến việc quan hệ Việt Nam - Ấn Độ lần lượt nâng cấp lên đối tác chiến lược (2007) và đối tác chiến lược toàn diện (2016), cũng như hiệu quả hợp tác trên các lĩnh vực được phát triển mạnh mẽ hơn. Các Thủ tướng Ấn Độ giai đoạn 2007-2021, đặc biệt là Thủ tướng N. Modi là những người thuộc nhóm ý thức mạnh mẽ về sự trỗi dậy của Trung Quốc đe dọa an ninh, vị thế ảnh hưởng của Ấn Độ tại khu vực sân sau của Ấn Độ là Nam Á và Ấn Độ Dương, do đó tự nhiên có sự điều chỉnh chính sách đối với các nước ĐNA, trong đó có Việt Nam. Năm 2007, khi trả lời phỏng vấn phóng viên Thông tấn xã Việt Nam tại New Delhi trước thềm chuyến thăm Ấn Độ của Thủ tuớng Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh đã nói: “Chúng tôi coi sự hợp tác với Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong quá trình hội nhập với toàn khu vực. Ấn Độ và Việt Nam có chung các mục tiêu và thường có quan điểm tương đồng trong nhiều vấn đề quốc tế. Chúng tôi hy vọng, Việt Nam ủng hộ Ấn Độ tăng cường quan hệ hợp tác và liên kết với khu vực ASEAN” [5]. Tháng 9/2016 trong cuộc gặp với Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi cũng khẳng định Việt Nam là một trụ cột quan trọng trong chính sách Hành động hướng Đông của Ấn Độ và trong phát triển quan hệ của Ấn Độ với ASEAN [161, tr.8-9].

Qua phân tích tư duy, quan điểm đối ngoại của Thủ tướng Manmohan Singh và Narenda Modi, có thể thấy giai đoạn 2007 - 2021, vị trí, vai trò của Việt Nam trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ được thể hiện rõ trên những khía cạnh sau: (i) Việt Nam là nước láng giềng với Trung Quốc, là nơi tiếp giáp cả phần đất liền và biển giữa ĐNA và Đông Bắc Á, có bờ biển dài, hướng ra Biển Đông. Việt Nam có khả năng trở thành nơi hội tụ và cân bằng quyền lực giữa các nước lớn trong khu vực; (ii) Việt Nam là yếu tố giúp cân bằng, ổn định tại ĐNA; (iii) Đóng vai trò cầu nối quan trọng để tăng cường hợp tác với ASEAN và các cơ chế khác ở CA-TBD; (iv) Là đối tác tiềm năng, thị trường xuất khẩu, đầu tư, thương mại triển vọng, đặc biệt là tiềm năng về dầu mỏ, khí đốt tại Biển Đông, tiềm năng về các ngành năng lượng tái tạo có thể đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của Ấn Độ.

Xem tất cả 232 trang.

Ngày đăng: 26/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí