với ba quyền đánh chết Trấn Quan Tây Trịnh Đồ, kẻ chuyên ức hiếp dân lành,
đã thể hiện rõ con người ông. Hớn Minh cũng có tấm lòng chính trực, yêu, ghét rõ ràng, thấy chuyện bất bình chẳng tha. Chàng "sẵn sàng hy sinh cả tương lai, vứt bỏ cả con đường đi đến danh vọng để biểu thị một thái độ đầy khí phách của một hiệp sĩ" [21.304]. Nhìn thấy tên con quan huyện Đặng Sinh ỷ thế cưỡng hiếp con gái nhà dân lương thiện, chàng bèn nổi giận: "Vật chàng xuống đó bẻ đi một giò". Sau đó sợ liên luỵ cho người khác, chàng tự trói mình nộp cho huyện đường chịu tội để rồi tìm cách vượt ngục. Con người nghĩa khí ấy còn có một tấm lòng thuỷ chung, trọn vẹn trong tình bạn. Chỉ một lần gặp gỡ Vân Tiên, mến nhau vì tài mà tình bạn ấy luôn bền chặt. Gặp lại nhau trong tình cảnh bạn bị mù loà, Hớn Minh đã lạy tạ ân nhân cứu bạn mình, rồi đưa bạn về nơi ẩn nấp để chăm lo chạy chữa thuốc thang. Tóm lại, con người ấy từ dáng vẻ bề ngoài đến tính cách bên trong đều toát lên vẻ tự nhiên, rất đáng trân trọng.
Vương Tử Trực cũng là một người đáng mến. Qua lời giới thiệu của Võ Công thì chàng cũng là người " văn chương tót vờì". Gặp Lục Vân Tiên, mến nhau vì tài, Tử Trực luôn giữ thái độ kính trọng Vân Tiên:
Trực rằng: "Tiên vốn cao tài, Có đâu én hộc sánh vai một bầỵTình cờ mà gặp nhau đây,
Trực rằng xin nhượng Tiên rày làm anh.
Sau này, khi đã đỗ đầu khoa thi, chàng trở về hỏi thăm tin tức Vân Tiên, gia đình Võ Thể Loan gạ gẫm gả Võ Thể Loan cho chàng, chàng đã lớn tiếng mắng nhiếc:
Trực rằng: " Ngòi viết dĩa nghiên, Anh em xưa có thề nguyền cùng nhau.
Vợ Tiên là Trực chị dâu,
Chị dâu em bạn dám đâu lỗi nghì.
Có thể bạn quan tâm!
- Nhân vật Từ Hải và nhân vật Lục Vân Tiên nhìn theo quan điểm giới - 9
- Nhân vật Từ Hải và nhân vật Lục Vân Tiên nhìn theo quan điểm giới - 10
- Nhân vật Từ Hải và nhân vật Lục Vân Tiên nhìn theo quan điểm giới - 11
- Nhân vật Từ Hải và nhân vật Lục Vân Tiên nhìn theo quan điểm giới - 13
Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.
Chẳng hay người học sách chi,
Nói sao những tiếng dị kỳ khó nghe, Hay là học thói nước Tề,
Vợ người Tử Củ đưa về Hoàn Công.
Hay là học thói Đường cung,
Vợ người Tiểu Lạc sánh cùng Thế Dân.
Người nay sao phải nhà Tần, Bất Vi gả vợ Dị Nhân lấy lầm. Nói sao chẳng biết hổ thầm,
Người ta há phải là cầm thú sao?"
Từ Trực trước sau vẫn giữ trọn tình nghĩa anh em, trước sau vẫn giữ phẩm chất thanh cao. con người ấy cũng thật là đáng quý.
Nhân vật ông quán, ông ngư, ông tiều, tiểu đồng đều là những người tốt. Ông quán dám lên tiếng chê trách những tham quan và phê phán những ông vua bạo ngược với thái độ rõ ràng:
Quán rằng: ghét việc tầm phào, Ghét cay ghét đắng, ghét vào tới tâm.
Ghét đời Kiệt,Trụ mê dâm, Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.
Ghét đời U, Lệ đa đoan,
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
Ghét đời Ngũ bá phân- vân, Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn.
Ghét đời Thúc -quí phân băng, Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân.
Ông ngư cũng thẳng thắn bày tỏ quan niệm sống của mình và thẳng thắn từ chối khi Vân Tiên có ý định sau này đền ơn:
Ngư rằng: "Lòng lão chẳng mơ,
Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn ?
Nước trong rửa ruột sạch trơn, Một câu danh lợi chi sờn lòng đâỵ Rày doi, mai vịnh vui vầy,
Ngày kia hứng gió, đêm nầy chơi trăng.
Một mình thong thả làm ăn,
Khỏe quơ chày kéo, mệt quăng câu dầm.
Nghêu ngao nay chích mai đầm, Một bầu trời đất vui thầm ai hay.
Kinh luân đă sẵn trong tay, Thung dung dưới thế vui say trong trời.
Thuyền nan một chiếc ở đời,
Tắm mưa trải gíó trong vời Hàn giang".
Ông tiều thấy Vân Tiên bị nạn thì lấy cơm nắm cho chàng ăn, rồi mặc dù già cả, ông cúng ra sức cõng Vân Tiên về nhà. Tiểu đồng cũng là người sống có tình, có nghĩa. Hai thầy trò tiểu đồng luôn sát cánh bên nhau trên bước đường ra kinh ứng thí cho đến khi gặp nạn. Khi thầy gặp nạn, tiểu đồng tìm mọi cách để an ủi, chạy chữa thuốc thang. Vì nghe lời Trịnh Hâm vào rừng lấy thuốc mà hai thầy trọ lạc nhau. Gặp người bị nạn, tưởng là thầy của mình đã chết, tiểu đồng dốc lòng báo đáp:
Tiểu đồng nằm giữa rừng hoang, Che chòi giữ mả lòng toan trọn bề.
Một mình ở đất Đại Đề,
Sớm đi khuyến giáo, tối về quảy đơm.
Dốc lòng trả nợ áo cơm,
Sống mà trọn nghĩa, thác thơm danh hiền.
Tóm lại, nhân vật chính diện trong truyện Lục Vân Tiên tuy mỗi người
mỗi vẻ, mỗi nét mặt khác nhau, nhưng họ đều là những người "cương trực", "khẳng khái", "vị tha" và “trọng nghĩa hiệp". Họ sẵn sàng cứu giúp người khác không sợ khó khăn nguy hiểm và nêu cao cái nghĩa khí “giữa đường gặp sự bất bình chẳng tha". Họ kiên trì đứng về lẽ phải mà suy nghĩ và hành động. Họ đã ăn ở, giao tiếp và đối xử với nhau thật là trọn tình vẹn nghĩa, thủy chung. Họ chính là đại diện cho bản tính của người dân Nam Bộ như Nguyễn Lộc đã giải thích khi nói về các nhân vật chính diện trong truyện Lục Vân Tiên: " Nam Bộ là một miền đất đai phì nhiêu mới khai phá của Tổ quốc. Người dân Nam Bộ ngoài những người bản địa, một số không ít vốn là những nông dân nghèo miền Bắc vào đây sinh cơ lập nghiệp, hoặc là những người chống đối các triều đình phong kiến ngoài Bắcbị khùng bố, chạy vào đây trốn tránh. Lại có cả một ít những người Trung Quốc, những người "Minh hương" chống nhà Thanhbị khủng bố cũng chạy sang đây. Tất cả những con người nghèo khổ và nghĩa khí ấy sông với nhau trong điều kiện thiên nhiên có nhiều thuận lợicho việc làm ăn nên càng hào hiệp, nghĩa khí. Tính cách của họ vẫn là tính cách của cộng đồng người Việt Nam nói chung, nhưng ở họ còn có một số nét địa phương rất rõ. Đõ là những con người " đã tròn thì ra tròn, đã vuông thì ra vuông, dứt khoát rõ ràng, như rựa chém đất, không lắt léo khó hiểu, có thể nói là không suy nghĩ lâu, không tính toán kỹ". Chung thuỷ phải là chung thuỷ như Kiều Nguyệt Nga, nghĩa khí hào hiệp phải là nghĩa khí hào hiệp như Hơn Minh, tiểu đồng; ghét đời phải bỏ đời vào rừng mà ở như ông ngư, ông tiều...có cái gì như quá đáng, nhưng phải như vậy mới phản ánh được tính cách của người Nam Bộ" [25.649].
Trái ngược với nhân vật chính diện là nhân vật phản diện. Yếu tố phản diện thường được bộc lộ rõ qua tính cách con người. Nhân vật Trịnh Hâm là
một kẻ nham hiểm, coi thường người khác. Khi làm thơ kém bị ông quán chê
cười, Trịnh Hâm đã buông ra nhưng lời lẽ hằn học, khinh người:
Hâm rằng : "Lão quán nói nhăng, Dầu cho trải việc cũng thằng bán cơm.
Gối rơm theo phạn gối rơm, Có đâu ở thấp mà chồm lên cao".
Kẻ tiểu nhân đó còn giả vờ an ủi và gạt nước mắt tiễn đưa Vân Tiên khi chàng trở về quê chịu tang mẹ. Gặp lại Vân Tiên trong cảnh mù loà, Trịnh Hâm không những cảm thương cho bạn mà còn lập mưu giết tiểu đồng và lừa lúc nửa đêm xô Vân Tiên xuống biển:
Trịnh Hâm khi ấy ra tay,
Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời.
Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời, Cho người thức dậy lấy lời phôi pha.
Bên cạnh một Trịnh Hâm tán tận lương tâm còn có một Bùi Kiệm quen thói dâm ô, hưởng lạc. Khi biết Kiều Nguyệt Nga yêu Lục Vân Tiên, Bùi Kiệm đã khuyên nàng với lời lẽ thật bỉ ổi:
Chúa xuân còn ở vườn đào,
Ong qua bướm lại biết bao nhiêu lần.
Chúa đông ra khỏi vườn xuân, Hoa tàn nhụy rữa như rừng bỏ hoang.
Ở đời ai cậy giàu sang,
Ba xuân dẫu hết ngàn vàng khôn mua.
Những tưởng Bùi ông thấu hiểu đạo lí hơn con nhưng rồi cũng rập theo một giọng:
Bùi ông ngon ngọt trau dồi,
Muốn nàng cho đặng sánh đôi con mình.
Làm người chấp nhất sao đành,
Hễ là lịch sự có kinh có quyền.
Trăng thanh gió mát cắm thuyền chờ ai ?
Nhớ câu xuân bất tái lai, Ngày nay hoa nở, e mai hoa tàn. Làm chi thiệt mạng hồng nhan,
Năm canh gối phụng màn loan lạnh lùng.
Vọng Phu xưa cũng trông chồng, Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha.
Thôi thôi khuyên chớ thở ra, Vầy cùng con lão một nhà cho xuôi"
Ngoài ra còn có những kẻ cơ hội như gia đìnhVõ Công, khi thấy Vân Tiên bị mù thì sẵn sàng đem bỏ chàng vào trong hang tối và tìm cơ hội để con gái mình lấy được tân khoa Tử Trực. Sau này khi Vân Tiên đỗ đạt, dẹp giặc xong thì mẹ con Thể Loan lại tính đến đem sắc đẹp ra dụ Vân Tiên cho chàng đắm lòng. Những thầy ngang, thầy tướng cũng là những kẻ lừa bịp đáng lên án.
Các nhân vật làm điều ác trong truyện cuối cùng đều bị trừng trị, không loại trừ ai. Trịnh Hâm, kẻ đã đẩy Vân Tiên xuống sông thì về sau bị chết chìm, làm mồi cho cá. Võ Công thì xấu hổ mà chết, hai mẹ con Võ Thể Loan thì bị hổ đưa vào hang sâu (nơi trước đây Võ đã nhốt Vân Tiên), rồi lấy đá chẹn ngang. Còn Bùi Kiệm thì "Trong lòng hổ thẹn mình vì máu dê". Thái sư bị cách chức, về nhà,… Đây chính là ước mơ về một xã hội công bằng mà Nguyễn Đình Chiểu đang hướng tới. Trong xã hội ấy, những con người có lòng phản trắc, độc ác cuối cùng cũng bị tiêu diệt chỉ còn lại những con người sống gắn bó với nhau bằng tấm lòng nhân hậu, bằng những tình cảm chân thành xuất phát từ trái tim.
Có thể nói, lý tưởng thẩm mỹ trong các nhân vật anh hùng đã nêu bật một lối sống có văn hóa và khí phách anh hùng đặc trưng bản sắc Việt Nam.
Đó là lối sống trọng đạo lý và công bằng xã hội, trọng con người và căm ghét
áp bức, bất công. Cái “hào khí Đồng Nai” ấy được thể hiện qua hành động của các nhân vật trong truyện thơ Lục Vân Tiên và sau này là trong các nghĩa sĩ Cần Giuộc và nghĩa sĩ lục tỉnh thời Nam Kỳ kháng Pháp. Tuy vậy, cách phân loại nhân vật phiến diện, một chiều của tác giả sẽ làm cho nhân vật thiếu đi yếu tố tự nhiên, trần thế. Kiểu nhân vật nam nhi chính diện thường mang tính khắc kỷ, chỉ được xây dựng trên các cương vị nghĩa vụ, bổn phận mà không có khía cạnh cá nhân cũng khiến nhân vật kém hấp dẫn, thiếu sự chân thực. Kiểu nhân vật nam chính diện, phản diện vẫn chưa thoát khỏi môtíp của văn học dân gian truyền thống với quan niệm "ở hiền, gặp lành", "ác giả, ác báo". Hơn thế nữa, Nguyễn Đình Chiểu lại đang sống trong một không gian văn hoá nghệ thuật tuồng đề cao tư tưởng "quân , quốc", trừ gian diệt nịnh... nên các nhân vật trong Lục Vân Tiên cũng bị ảnh hưởng bởi bộ môn nghệ thuật này.
3.3 Tiểu kết
Xuất thân từ một nhà nho, lại sống trong thời kì xu hướng tôn nho đang trở lại vùng đất phương Nam nên Nguyễn Đình Chiểu không tránh khỏi sự áp đặt các chuẩn mức Nho gia cho nhân vật của mình. Các nhân vật chính diện, phản diện bị phân tuyến rạch ròi. Các nhân vật nam chính diện như Lục Vân Tiên, Tử Trực, Hớn Minh, Tiểu đồng...thường được khắc hoạ ở yếu tố: có lòng trọng nghĩa khinh tài, có tài năng xuất chúng nhưng lại có những biểu hiện khắc kỷ đối với phụ nữ, thiếu tính lãng mạn trong tình yêu. Các nhân vật nam phản diện luôn có những hành động được coi là trái với đạo lí làm người như tính nết xấu xa, có những dục vọng thấp hèn như Trịnh Hâm, Bùi Kiệm, Võ Công...Những quan niệm văn hoá này đã làm cho các nhân vật khá mờ nhạt về phương diện nhân bản.
KẾT LUẬN
Trong khuôn khổ đề tài, chúng tôi vận dụng những tri thức về văn hóa giới thời trung đại ở Việt Nam để phân tích, cắt nghĩa hình tượng nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều và nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện Lục Vân Tiên từ góc nhìn giới. Qua quá trình nghiên cứu, chúng tôi rút ra một số kết luận như sau:
1. Quan niệm văn hóa của xã hội Nho giáo về người nam nhi có phần khắc kỷ, biến người đàn ông thành những con người phận sự khô khan: hiếu với cha mẹ, trung với vua, có chính nghĩa, nhưng nam nhi hiếm được tả như một tình nhân. Nếu là tình nhân thì được tả với dụng ý phê phán (các nhân vật nam trong Truyền kỳ mạn lục )
2. Trong bối cảnh đó, Từ Hải trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là một biểu tượng mới, sống động, phản ánh quan niệm mới về con người mang vẻ đẹp nhân bản. Chủ nghĩa nhân bản không nhìn con người như một chiếc máy sàng lọc cảm xúc mà trân trọng ghi lại hết thảy mọi phản ứng tình cảm của con người trước các tình huống phong phú của cuộc sống. Trân trọng con người không thể không coi trọng đời sống thể xác, đến thế giới nội tâm phong phú, đa dạng, tự do, không bị kiểm soát. Nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều đã phần nào khắc phục được kiểu tư duy sáng tác áp đặt con người như là đối tượng của nhà chính trị. Có lẽ vì thế mà nhân vật Từ Hải cũng như các nhân vật khác trong Truyện Kiều sống mãi với thời gian.
3. Lục Vân Tiên là sản phẩm của giai đoạn lịch sử đặc biệt, phản ánh văn hóa của người dân Nam Bộ trên vùng đất mới. Con người cần cố kết, sẵn lòng cứu giúp lẫn nhau trong lao động, chinh phục tự nhiên và chống xâm lược, rất cần tinh thần hy sinh, vị tha, tinh thần cộng đồng. Tuy vậy, kiểu nhân vật nam nhi khắc kỷ, chỉ được xây dựng trên các cương vị nghĩa vụ, bổn phận mà không có khía cạnh cá nhân cũng khiến nhân vật kém hấp dẫn, thiếu sự chân thực.