Nội Dung, Tiêu Chí Đánh Giá Và Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Nhân Lực Tại Các Doanh Nghiệp Du Lịch Trong Hội Nhập Quốc Tế


nghiệp du lịch muốn duy trì và phát triển trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu sắc như ngày nay, cần phải nhận thức rõ hơn vai trò của việc phát triển nhân lực. Một địa danh du lịch đẹp nhưng ở đó con người không thân thiện, thiếu ý thức bảo vệ cộng đồng,… thì nơi đó không thể nào có sự phát triển bền vững. Hình ảnh một Việt Nam thân thiện, hiếu khách, hòa bình không để lại dấu ấn đẹp cho khách hàng nếu nhân lực tại các doanh nghiệp du lịch vừa thiếu vừa yếu.

2.2. NỘI DUNG, TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NHÂN LỰC TẠI CÁC DOANH NGHIỆP DU LỊCH TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ

2.2.1. Nội dung và tiêu chí đánh giá nhân lực tại các doanh nghiệp du lịch trong hội nhập quốc tế

Thực trạng phát triển du lịch của một quốc gia, một địa phương ảnh hưởng rất lớn đến việc thúc đẩy sự phát triển, ra đời của các DNDL, từ đó kéo theo sự phát triển về đội ngũ nhân lực của các DNDL. Khi một quốc gia phát triển mạnh về du lịch, các DNDL ra đời ngày càng nhiều, đòi hỏi số lượng nhân lực ngành du lịch ngày càng gia tăng và ngược lại, khi du lịch kém phát triển, không thúc đẩy các DNDL phát triển thì nhu cầu về nhân lực của các DNDL cũng thấp. Vì vậy, khi nghiên cứu về nhân lực tại các DNDL trong hội nhập quốc tế trước tiên cần xem xét nội dung của nó như thế nào. Đây là một trong những nội dung quan trọng hàng đầu khi nghiên cứu nhân lực tại các DNDL trong thời kỳ hội nhập.

2.2.1.1. Số lượng nhân lực tại các doanh nghiệp du lịch

Trên bản đồ du lịch thế giới, Việt Nam ngày càng được biết đến với những giá trị về bản sắc văn hóa và cảnh quan sinh thái đặc sắc của đất nước và con người mến khách. Vì vậy, dòng khách quốc tế có xu hướng đến Việt Nam ngày càng gia tăng. Cùng với đó, do đời sống con người ngày càng cao, nhu cầu đi du lịch ngày càng tăng, vì vậy khách du lịch nội địa cũng tăng


mạnh. Trước cơ hội và yêu cầu của quá trình hội nhập, số lượng nhân lực tại các DNDL rõ ràng đứng trước yêu cầu phải có sự tăng lên về số lượng để đáp ứng nhu cầu tăng lên về lượng khách du lịch, đặc biệt là du lịch quốc tế. Về nhu cầu cho phát triển đang đòi hỏi cần có qui mô nhân lực tăng lên rất lớn.

Để đảm bảo số lượng cho sự phát triển của doanh nghiệp thì trong đó việc thu hút, tuyển chọn nhân sự là yếu tố quan trọng hàng đầu giúp đảm bảo cho doanh nghiệp có đủ số lượng nhân lực và chất lượng và phù hợp với cơ cấu, để đáp ứng được điều này các doanh nghiệp cần xây dựng bản mô tả công việc một cách rõ ràng, có các phương pháp đánh giá hiệu quả công việc minh bạch, công bằng, chế độ chính sách phù hợp.

2.2.1.2. Chất lượng nhân lực tại các doanh nghiệp du lịch

Chất lượng nhân lực của các DNDL là các tiêu chí: thể lực (trạng thái sức khoẻ), trí lực (trình độ chuyên môn, trình độ học vấn, kỹ năng nghề, kinh nghiệm làm việc) và tâm lực (phẩm chất đạo đức, tinh thần, thái độ phong cách làm việc, khả năng chịu áp lực...) [31].

Đánh giá về chất lượng nhân lực tại DNDL trong hội nhập quốc, cần đánh giá đầy đủ trên 3 yếu tố cấu thành là thể lực, trí lực và tâm lực của người lao động. Cụ thể như sau:

- Về thể lực

Thể lực là tình hình sức khỏe của con người. Khi người lao động có sức khỏe tốt, tinh thần thoải mãi thì hiệu quả công việc sẽ cao hơn và ngược lại. Đặc biệt, đối với lĩnh vực du lịch, một ngành đòi hỏi cao về thể lực của người lao động, nó quyết định đến hiệu quả làm việc, từ đó quyết định đến sự phát triển của các DNDL trong thời kỳ hội nhập. Vì vậy, các DNDL đề ra các giải pháp phù hợp đáp ứng được thời hội nhập.

Dưới dây là bảng tiêu chuẩn phân loại theo thể chất của lao động ở các nghề, công việc. Đây là một trong những căn cứ để đánh giá thể lực của nhân lực tại các DNDL trong hội nhập quốc tế.


Bảng 2.1: Tiêu chuẩn phân loại theo thể chất của lao động ở các nghề, công việc


Loại sức khỏe

Nam

Nữ

Chiều cao (cm)

Cân nặng (kg)

Vòng

ngực (cm)

Chiều cao (cm)

Cân nặng (kg)

Vòng ngực (cm)

1. Rất khỏe

160 trở lên

50 trở lên

82 trở lên

155 trở lên

45 trở lên

76 trở lên

2. Khỏe

158-162

47-49

79-81

151-154

43-44

74-75

3. Trung bình

154-157

45-46

76-78

147-150

40-42

72-73

4. Yếu

150-153

41-44

74-75

143-146

38-39

70-71

5. Rất yếu

Dưới 150

Dưới 40

Dưới 74

Dưới 143

Dưới 38

Dưới 70

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 178 trang tài liệu này.

Nhân lực tại các doanh nghiệp du lịch ở tỉnh Ninh Bình trong hội nhập quốc tế - 7

Nguồn: [11]

Trên cơ sở đó, trí lực của nhân lực tại các DNDL trong hội nhập quốc tế được đánh giá thông qua tỷ lệ nhân lực có sức khỏe tốt, trung bình, yếu (được đo bằng độ tuổi, giới tính, chiều cao, cân nặng, vòng ngực) được tính theo công thức:


Tỷ lệ nhân lực có sức = khỏe loại i

Số lượng nhân lực sức khỏe loại i


Tổng số nhân lực của DNDL


x 100


- Về trí lực

Trí lực là chuyên môn, học vấn và kiến thức kỹ năng mềm và kỹ năng nghề nghiệp, kinh nghiệm làm việc, năng lực làm việc của người lao động, nó quyết định phần lớn khả năng lao động sáng tạo của con người. Trí lực được xem là yếu tố quan trọng hàng đầu của nguồn lực con người trong doanh nghiệp nói chung và DNDL trong hội nhập quốc tế nói riêng, bởi tất cả những gì thúc đẩy con người hành động tất nhiên phải thông qua đầu óc của họ. Trí lực của nhân lực tại DNDL trong hội nhập quốc tế thường được đánh giá theo các tiêu chí:


+ Trình độ học vấn và kiến thức chuyên môn: Đây là yếu tố mà người lao động có được thông qua việc học tập, rèn luyện khi học tập, làm việc. Đó là những hiểu biết về nghề nghiệp, vị trí công việc được giao. Trong thời kỳ hội nhập thì Doanh nghiệp nói chung và DNDL nói riêng rất cần đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn tốt để thực thi tốt nhiệm vụ, do vây chuyên môn nghiệp vụ của người lao động… phải cả trình độ đào tạo ở các cấp học và kỹ năng kinh nghiệm của người lao động đã qua đào tạo cũng như chưa qua đào tạo của ngành nghề liên quan đến du lịch… [9].

+ Kỹ năng mềm và kỹ năng nghề: Kỹ năng mềm là các kỹ năng liên quan đến việc giao tiếp, thuyết trình, lập kế hoạch, giải quyết vấn đề, vượt qua khủng hoảng, khó khăn trong cuộc sống và trong công việc. Có thể nói, du lịch là ngành đòi hỏi rất cao về kỹ năng mềm. Mỗi vị trí công việc lại đòi hỏi những kỹ năng mềm khác nhau. Tuy nhiên, theo các nghiên cứu về lao động của Việt Nam hiện nay, top 10 kỹ năng quan trọng khi hội nhập quốc tế mà người lao động cần phải có là: Lắng nghe, thuyết trình, đàm phán, giao tiếp, làm việc nhóm, học và tự học, tư duy sáng tạo, lập kế hoạch, sắp xếp và quản lý công việc hiệu quả, giải quyết vấn đề [35]. Trong cuộc sống nói chung và trong công việc của ngành du lịch nói riêng, người lao động phải thường xuyên rèn luyện các kỹ năng này để nâng cao năng lực và giải quyết công việc hiệu quả, chuyên nghiệp hơn. Cùng với kỹ năng mềm, kỹ năng nghề cũng là một trong những chỉ tiêu về đánh giá chất lượng nhân lực tại các DNDL trong hội nhập quốc tế. Mỗi một công việc, một đối tượng lại có những đòi hỏi những kỹ năng công việc khác nhau. Để người lao động có thể thực hiện tốt công việc đuợc giao thì các DNDL cần mô tả rõ và chi tiết các yêu cầu kỹ năng nghề nghiệp này. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp có cơ sở để lựa chọn ứng cử viên khi tuyển dụng nhân sự và có những cách thức đào tạo, rèn luyện phù hợp đối với mỗi đối tượng lao động để nâng cao kỹ năng nghề


nghiệp cho người lao động, qua đó góp phần nâng cao chất lượng lao động của doanh nghiệp trong thời kỳ hội nhập [47].

+ Năng lực ngoại ngữ, tin học: Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, thông thạo ngoại ngữ và tin học là hai yêu cầu bắt buộc mà người lao động phải có khi ứng tuyển vào hầu hết các vị trí trong các DNL. Việc biết ngoại ngữ không những là yêu cầu tất yếu của lao động có chất lượng cao nhằm đáp ứng các quy trình công nghệ thường xuyên được đổi mới, phục vụ khách du lịch quốc tế mà còn phải có kỹ năng kinh nghiệm chuyên sâu từng lĩnh vực cụ thể. Cùng với ngoại ngữ, tin học được đánh giá là công cụ để giúp người lao động có thể giải quyết vấn đề tốt hơn, vì vậy nhân lực của các DNDL cần phải có khả năng sử dụng các thiết bị văn phòng, các phần mềm chuyên dụng cho từng công việc cụ thể, thành thạo internet. Như vậy, việc thông thạo ngoại ngữ, tin học là chìa khóa quan trọng, giúp người lao động tiếp cận với nền tri thức tiên tiến, hỗ trợ đắc lực cho công việc tại DNDL trong thời hội nhập quốc tế [9].

+ Kinh nghiệm kỹ năng tiến hành thực hiện công l việc: Đây chính là thâm niên trong ngành du lịch mà một người lao động có được. Khi người lao động có chuyên môn chuyên sâu, kỹ năng tinh sảo, kinh nghiệm già rặn trong thực thi công việc lâu năm thì khả năng giải quyết các vấn đề, tình huống trong công việc có xu hướng rất tốt và dễ dàng. Song, những người trẻ, ít kinh nghiệm lại thường năng động, sáng tạo và có khả năng học hỏi, thích cao rất cao. Vì vậy, để nâng cao chất lượng nhân lực thì các DNDL cần động viên người lao động chủ động học tập, trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm làm việc, hỗ trợ giúp đỡ đồng nghiệp trong quá trình thực hiện công việc.

Trên cơ sở đó, trí lực của nhân lực tại các DNDL trong hội nhập quốc tế được đánh giá thông qua tỷ lệ nhân lực có trình độ học vấn và kiến thức chuyên môn, có kỹ năng mềm và kỹ năng nghề nghiệp, có năng lực ngoại ngữ, thâm niên công tác:


Tỷ lệ nhân lực có trình độ học vấn và kiến thức chuyên môn, có kỹ năng mềm và kỹ năng nghề nghiệp, có năng lực ngoại ngữ, thâm niên công tác loại i

Số lượng nhân lực có trình độ học vấn và kiến thức chuyên môn, có kỹ năng mềm và kỹ năng nghề nghiệp, có năng lực ngoại

ngữ, thâm niên công tác loại i

=

Tổng số nhân lực của DNDL


x 100


- Về tâm lực

Tâm lực của nhân lực tại DNDL trong hội nhập quốc tế là những yếu tố liên quan đến ý thức, phẩm chất, thái độ của người lao động gồm: thái độ và trách nhiệm làm việc, tâm lý làm việc, khả năng chịu áp lực công việc. Đây là tiêu chí rất quan trọng, quyết định đến đặc điểm chung của người lao động và sự phát triển bền vững của từng DNDL trong hội nhập quốc tế nói riêng, của từng khu vực và quốc gia nói chung. Cụ thể về tâm lực của nhân lực được thể hiện trên các khía cạnh sau:

+ Thái độ và trách nhiệm làm việc: Là ý thức của nhân lực trong quá trình làm việc. Đây là một yếu tố quan trong quyết định đến hiệu quả công việc. Bởi thái độ và tinh thần trách nhiệm quyết định đến hành vi. Thực tế một người lao động có trình độ chuyên môn tốt, năng lực ngoại ngữ và tin học tốt, sức khỏe tốt nhưng thái độ làm việc không tích cực, không chuyên nghiệp, không có trách nhiệm trong công việc thì hiệu quả công việc sẽ không cao. Và ngược lại, khi một nhân sự mặc dù có chuyên môn, nghiệp vụ và khả năng xử dụng ngoại ngữ và tin học kém hơn nhưng thái độ làm việc tích cực, có trách nhiệm trong công việc thì kết quả làm việc thường sẽ tốt hơn. Do vậy, nhân lực tại các DNDL trong hội nhập quốc tế cần phải cần cù, chịu khó, tích cực, hăng hái, siêng năng trong công việc, nhiệm vụ được giao. Tiết kiệm thời gian, công sức, trí tuệ để triển khai công việc một cách có hiệu quả tối ưu nhất.


+ Tâm lý làm việc: Là yếu tố nội tâm bên trong của người lao động. Đây cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và hiệu quả công việc của người lao động. Khi người lao động có tâm lý tốt, thoải mãi thì chất lượng công việc thường sẽ tốt hơn và ngược lại. Tâm lý của nhân lực chịu ảnh hưởng bởi hai yếu tố là nội tâm bên trong của họ và những yếu tố chủ quan bên ngoài như nội quy, quy chế, môi trường làm việc, chế độ đãi ngộ, mối quan hệ với đồng nghiệp, lãnh đạo, áp lực công việc… Vì vậy, để nhân lực có tâm lý tốt, các DNDL cần phải quan tâm nghiên cứu nội tâm bên trong của người lao động bằng các hình thức như hỏi thăm, động viên người lao động khi gặp hoàn cảnh khó khăn. Đồng thời, cần có cơ chế, đãi ngộ, khen thưởng hợp lý, xây dựng môi trường làm việc tốt trong doanh nghiệp và tạo bầu không khí làm việc thoải mãi, thời gian cũng như điều kiện làm việc phù hợp… qua đó kích thích tinh thần làm việc cho người lao động, nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc.

+ Khả năng chịu áp lực công việc: Mỗi một công việc có những đòi hỏi khác nhau và đều có những áp lực nhất định. Đặc biệt, trong hội nhập, nhân lực của DNDL tại càng phải chịu nhiều áp lực từ nhiều phía khác nhau như từ khách hàng, đồng nghiệp, quản lý, đối tác, từ việc học tập nâng cao tay nghề, nghiệp vụ… Vì vậy, để giải quyết tốt công việc đòi hỏi người lao động phải có ý trí bền bỉ và sức khỏe tốt, qua đó sẽ chịu được áp lực công việc tốt hơn.

Như vậy, từ các phân tích trên có thể khẳng định rằng tâm lực của nhân lực là yếu tố rất khó đánh giá và lượng hóa đuợc. Trong mỗi hoàn cảnh, mỗi thời điểm khác nhau lại có những biểu hiện khác nhau, vì vậy sẽ có những đánh giá khác nhau [50].

Tâm lực của nhân lực tại các DNDL trong hội nhập quốc tế được đánh giá thông qua thái độ và trách nhiệm làm việc, tâm lý làm việc, khả năng chịu áp lực công việc (được đánh giá dựa trên các tiêu chí như tần xuất vi phạm kỷ luật, số


lần được khen thưởng, mức sẵn lòng làm việc khi tăng ca,...) của nhân lực tại DNDL trong hội nhập quốc tế [73].

2.2.1.3. Cơ cấu nhân lực tại các doanh nghiệp du lịch

- Về cơ cấu của nhân lực ở trình độ: Chúng ta đang trong thời ký ngày càng hội nhập thì cơ cấu về nhân lực của DNDL. Thì người lao động có trình độ tay nghề cao sẽ tăng lên và ngược lại người lao động có tay nghề trình độ thập sẽ giảm xuống, bởi vì yêu cầu này là do khi hội nhập quốc tế nhân lực tại các DNDL cần phải đảm bảo chất lượng chuyên môn nghiệp vụ, tính chuyên nghiệp trong quá trình cung cấp các dịch vụ, những đòi hỏi cao của khách hàng. Vì vậy, để hội nhập quốc tế, các DNDL cần chú ý công tác đào tạo, nâng cao trình độ cho người lao động.

- Cơ cấu nhân lực theo loại công việc: Trong DNDL có thể chia lao động thành 2 nhóm theo loại công việc là: nhóm quản lý (cấp trưởng, phó phòng trở lên), và nhóm lao động nghiệp vụ. Xu hướng khi hội nhập quốc tế thì cả 2 nhóm lao động này đều tăng lên. Cơ cấu của 2 loại lao động này trong các DNDL phụ thuộc vào đặc thù kinh doanh, chiến lược kinh doanh và chiến lược nhân sự của doanh nghiệp. Vì vậy, để hội nhập quốc tế, các DNDL cần có chiến lược kinh doanh và các chiến lược, kế hoạch về nhân sự một cách chi tiết, rõ ràng. Trên cơ sở đó, cân đối cơ cấu các loại lao động trong doanh nghiệp để đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, hợp lý về cơ cấu.

- Cơ cấu nhân lực theo lĩnh vực, ngành, nghề, vị trí công tác: Thế giới ngày càng phát triển đa dạng hóa, đa phương hóa và tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội và nhu cầu hưởng thụ của con người cũng tất yếu sẽ thay đổi theo do vậy việc quản lý và điều hành cũng phải thay đổi cho phù hợp. Vì vậy, nhân lực tại các DNDL cần phải đảm bảo về cơ cấu ngành nghề phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp khi hội nhập quốc tế. Do đó, các DNDL cần thực hiện tốt hoạt động phân tích công việc (mô tả chi tiết công việc và các yêu cầu của công việc), qua đó công tác tuyển dụng cần thực hiện tốt và bố trí nhân sự một cách

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 01/03/2023