3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là yếu tố huyền thoại trong các tác phẩm truyền kì của Việt Nam, Trung Hoa thời trung đại.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Chúng tôi khảo sát các tác phẩm tác phẩm truyền kì Việt Nam thời trung đại trong văn bản: Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam; tập 1, 2 do Trần Nghĩa chủ biên, nhà xuất bản Thế giới xuất bản năm 1997. Cụ thể, chúng tôi đã khảo sát các truyện truyền kì trong các tác phẩm Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Truyền kì tân phả, Tân truyền kì lục, Vân nang tiểu sử, Truyện kí trích lục, Lan Trì kiến văn lục. Một công trình khác mang tính quy mô, hệ thống về truyền kì là tuyển tập Truyện truyền kỳ Việt Nam (3 quyển gồm 6 tập) do nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ Chi chủ biên, do Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 1999. Tuyển tập này tập hợp 262 truyện truyền kì và phỏng truyền kì của Việt Nam từ thế kỉ XIV đến thế kỉ XX. Hiện nay công trình này chỉ mới xuất bản quyển 2 (tập III, IV) và quyển 3 (tập V, VI). Vì thế, chúng tôi chỉ có thể sử dụng công trình này như một tài liệu để tham khảo, để đối chiếu với tài liệu khảo sát chính.
- Bên cạnh đó, chúng tôi khảo sát truyền kì Trung Hoa thời trung đại. Chúng được thể hiện tập trung qua các tác phẩm truyền kì đời Đường; đoản thiên tiểu thuyết đời Minh như Tiễn đăng tân thoại, đời Thanh với Liêu trai chí dị… Chúng tôi đã khảo sát cụ thể các văn bản sau:
+ Đường đại truyền kì do Phùng Quý Sơn biên soạn, nhà xuất bản Đồng Nai xuất bản năm 1995.
+ Tiễn đăng tân thoại trong Tiễn đăng tân thoại, Truyền kì mạn lục của Cù Hựu, Nguyễn Dữ, nhà xuất bản Văn học xuất bản năm 1999.
+ Liêu trai chí dị, do Tản Đà, Đào Trinh Nhất, Nguyễn Văn Huyền dịch, nhà xuất bản Văn học xuất bản năm 2008.
Có thể bạn quan tâm!
- Ngôn ngữ và Văn học Việt Nam: Truyền kì Việt Nam thời trung đại từ góc nhìn huyền thoại (đối chiếu với truyền kì Trung Hoa thời trung đại) - 1
- Nghiên Cứu Truyền Kì Việt Nam Thời Trung Đại Từ Góc Độ Tác Phẩm
- Nghiên Cứu Truyền Kì Việt Nam Thời Trung Đại Từ Góc Độ So Sánh
- Ngôn ngữ và Văn học Việt Nam: Truyền kì Việt Nam thời trung đại từ góc nhìn huyền thoại (đối chiếu với truyền kì Trung Hoa thời trung đại) - 5
Xem toàn bộ 271 trang tài liệu này.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phê bình huyền thoại là phương pháp chủ đạo. Cơ sở phương pháp luận của phê bình huyền thoại là quan niệm cho rằng huyền thoại là nhân tố quyết định để hiểu
toàn bộ các tác phẩm nghệ thuật của nhân loại “Việc nhấn mạnh tính phổ quát của huyền thoại trong toàn bộ hoạt động sáng tạo văn chương là một đặc điểm khu biệt cơ bản của phê bình huyền thoại” (Đào Ngọc Chương, 2009, tr.67). Phương pháp này sử dụng các lý thuyết của huyền thoại học để phân tích yếu tố huyền thoại trong tác phẩm văn học, từ đó có sự đánh giá, định hướng cho sự sử dụng, sáng tạo huyền thoại. Hiện nay, phê bình huyền thoại là một phương pháp nghiên cứu khá mới mẻ trên thế giới, đang từng bước xác lập nội hàm khái niệm. Tuy mới mẻ nhưng ngành nghiên cứu này đã tỏ ra rất hữu hiệu khi đưa các yếu tố ảo trong tác phẩm văn học về với cội nguồn của nó là huyền thoại.
- Phê bình lịch sử, xã hội: chúng tôi tiến hành phân tích những yếu tố lịch sử, xã hội tác động đến sự tồn tại của truyền kì Việt Nam thời trung đại. Ngoài ra chúng tôi cũng phân tích vai trò của lịch sử, xã hội đối với sự thể hiện các yếu tố huyền thoại trong truyền kì nói riêng, trong văn học Việt Nam nói chung.
- Phê bình thi pháp học: chúng tôi sử dụng các khái niệm của lí thuyết thi pháp học để mô hình hóa tác phẩm và phân tách các yếu tố.
Bên cạnh việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản nêu trên, chúng tôi sử dụng một số thao tác nghiên cứu cơ bản sau:
- Thao tác phân tích, tổng hợp: chúng tôi khảo sát các tư liệu để tổng hợp thành bức tranh tổng quan nghiên cứu về truyền kì Việt Nam thời trung đại và các lí thuyết chủ yếu của huyền thoại học. Chúng tôi phân tích hình thái, chức năng của các yếu tố huyền thoại có trong thần thoại và trong tác phẩm truyền kì (Việt Nam và Trung Hoa). Từ đó, chúng tôi đưa ra cái nhìn tổng thể về hình thái, ý nghĩa của các yếu tố huyền thoại và sự thay đổi của chúng khi di chuyển từ hệ thống thần thoại sang hệ thống truyền kì (nếu có).
- Thao tác so sánh, đối chiếu: chúng tôi so sánh, đối chiếu các yếu tố huyền thoại trong thần thoại và trong truyền kì, các yếu tố huyền thoại trong truyền kì Việt Nam và truyền kì Trung Hoa để thấy sự tương đồng và khác biệt.
- Thao tác thống kê, phân loại: chúng tôi đưa ra những số liệu cụ thể về vấn đề các yếu tố huyền thoại chiếm số lượng như thế nào trong tác phẩm truyền kì Việt Nam và Trung Hoa.
5. Đóng góp của luận án
- Luận án xác định, thống kê và phân loại các yếu tố huyền thoại trong truyền kì Việt Nam và Trung Hoa.
- Luận án vận dụng lí thuyết của huyền thoại học để lí giải, phân tích hình thái và ý nghĩa của các yếu tố huyền thoại trong truyền kì Việt Nam và Trung Hoa thời trung đại.
- Luận án xác định, phân tích sự tương đồng của hình thái, ý nghĩa của huyền thoại trong các tác phẩm truyền kì và trong thần thoại. Bên cạnh đó, luận án cũng xác định, phân tích sự khác biệt của huyền thoại trong truyền kì và trong thần thoại. Qua đó, luận án phân tích văn hóa dân gian, dấu ấn thời đại và sự sáng tạo của nhà văn trong việc kế thừa các yếu tố huyền thoại.
- Luận án xác định, phân tích và lí giải sự tương đồng và khác biệt trong hình thái và ý nghĩa của các yếu tố huyền thoại trong truyền kì Việt Nam và Trung Hoa. Từ đó, luận án chỉ rò sự giao thoa văn hóa và những giá trị riêng biệt của mỗi quốc gia.
- Luận án là công trình đầu tiên xác định, phân tích các yếu tố huyền thoại trong truyền kì Việt Nam thời trung đại (đối chiếu với truyền kì Trung Hoa thời trung đại). Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy vấn đề huyền thoại trong văn học Việt Nam trung đại.
6. Cấu trúc của luận án
Luận án bao gồm các phần chính là mục lục, phần mở đầu, nội dung, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục.
Phần mở đầu giới thiệu ngắn gọn về công trình nghiên cứu, bao gồm lí do chọn đề tài, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, đóng góp của luận án, cấu trúc của luận án.
Phần nội dung bao gồm bốn chương. Chương một trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu và hướng tiếp cận của đề tài. Chương hai, ba và bốn trình bày kết quả nghiên cứu của đề tài; cụ thể là huyền thoại và sự thể hiện huyền thoại trong văn học Việt Nam, truyền kì Việt Nam thời trung đại nhìn từ phương diện tư duy huyền thoại
(đối chiếu với truyền kì Trung Hoa thời trung đại) và phương diện nghệ thuật biểu hiện huyền thoại (đối chiếu với truyền kì Trung Hoa thời trung đại).
Phần kết luận trình bày khái quát kết quả nghiên cứu.
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRUYỀN KÌ VIỆT NAM THỜI TRUNG ĐẠI
VÀ HƯỚNG TIẾP CẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu truyền kì Việt Nam thời trung đại
Khi tìm hiểu đề tài Truyền kì Việt Nam thời trung đại từ góc nhìn huyền thoại (đối chiếu với truyền kì Trung Hoa thời trung đại), chúng tôi đã căn cứ vào đặc điểm nội dung, nghệ thuật của tác phẩm tự sự ở Việt Nam từ thế kỉ X - XIX; sự phân chia thể loại của các nhà nghiên cứu đi trước. Từ đó, chúng tôi xác định phạm vi khảo sát các tác phẩm truyền kì tiêu biểu của Việt Nam thời trung đại bao gồm các tác phẩm chủ yếu sau: Thánh Tông di thảo (Lê Thánh Tông ?), Truyền kỳ mạn lục (Nguyễn Dữ), Truyền kỳ tân phả (Đoàn Thị Điểm), Tân truyền kỳ lục (Phạm Quý Thích), Truyện ký trích lục (Khuyết danh), Vân nang tiểu sử (Phạm Đình Dục), Lan Trì kiến văn lục (Vũ Trinh). Là một trong những thể loại tiêu biểu của văn xuôi tự sự trung đại, truyền kì Việt Nam nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu.
1.1.1. Nghiên cứu truyền kì Việt Nam thời trung đại từ góc độ thể loại
1.1.1.1. Tên gọi
Xung quanh các tác phẩm này nói riêng và thể loại truyền kì nói chung, các nhà nghiên cứu đã gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau để thể hiện các đặc điểm của tác phẩm và thể loại.
Nhiều nhà nghiên cứu gọi tên các tác phẩm này là truyện truyền kì và cho rằng các truyện này thuộc kho tàng truyện chữ Hán của văn học Việt Nam thời trung đại. Trong Thi pháp văn học trung đại, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đã xác định văn học trung đại Việt Nam gồm 5 loại lớn: các thể thơ trữ tình, phú và các thể văn (chiếu, cáo, sách, dụ, hịch; tấu, nghị, biểu, khải, sớ, đối sách; thư, luận, biện, thuyết; văn tế, điếu văn; bi, minh, chí; tự, bạt; truyện, trạng; kí, tạp kí, kí sự), thể loại truyện chữ Hán (truyện thần linh, kì quái, anh tú; truyện truyền kì; tiểu thuyết chương hồi), diễn ca lịch sử và truyện thơ Nôm. Trong Loại hình văn học trung đại Việt Nam, nhà nghiên cứu Biện Minh Điền phân chia văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam thành truyện, kí, tiểu thuyết chương hồi. Theo nhà nghiên cứu này, “truyền kì” không chỉ
là một thể loại tiêu biểu của truyện mà còn là một xu hướng. Bởi vì sau thành công của Truyền kì mạn lục (Nguyễn Dữ), Thánh Tông di thảo (Lê Thánh Tông ?); Đoàn Thị Điểm đã biên soạn Truyền kì tân phả, Phạm Quý Thích biên soạn Tân truyền kì lục… nhằm làm mới truyện truyền kì trên cơ sở kế thừa. Nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ Chi đã biên soạn bộ Truyện truyền kì Việt Nam với 262 truyện truyền kì và phỏng truyền kì của Việt Nam từ thế kỉ XIV đến XX. Trong đó, 216 truyện dịch từ chữ Hán được chọn lọc từ 21 tập truyện chữ Hán. Ông xác định truyện truyền kì là một bộ phận của truyện chữ Hán. Ông cũng đã khẳng định truyền kì là một loại hình văn xuôi nghệ thuật có sự tham gia đậm nét của yếu tố kì ảo; thơ và văn xuôi biền ngẫu làm thành những thành phần hữu cơ trong kết cấu.
Một số nhà nghiên cứu gọi tên các tác phẩm Truyền kì mạn lục, Thánh Tông di thảo… là tiểu thuyết truyền kì bên cạnh thuật ngữ truyện truyền kì. Từ điển thuật ngữ văn học đã xác định tiểu thuyết truyền kì còn gọi là truyện truyền kì, là:
thể loại tự sự ngắn cổ điển của văn học Trung Quốc thịnh hành ở thời Đường. Tên gọi này đến cuối đời Đường mới có. “Kì” nghĩa là không có thực, nhấn mạnh tính chất hư cấu (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử và Nguyễn Khắc Phi, 2011, tr.342).
Trong Tiếp cận thể loại văn học cổ Trung Quốc, nhà nghiên cứu Đinh Phan Cẩm Vân xác định truyền kì/ tiểu thuyết truyền kì là một thể loại. Từ thế kỉ IV-III trước công nguyên, Trang Tử đã dùng từ “tiểu thuyết”. Về sau, một số người dùng từ này để khẳng định tính chất vụn vặt, nhỏ bé của những ghi chép, những tác phẩm không thuộc dòng văn học chính thống. Các tác phẩm chí quái thuộc dòng tiểu thuyết này. Các tác phẩm truyền kì có nguồn gốc từ chí quái. Các tác phẩm tiêu biểu như Sưu thần kí, Thế thuyết tân ngữ, Thập di kí… tuy là tiểu thuyết chí quái nhưng các tác giả đều nhấn mạnh đến tính xác thực của câu chuyện. Điều này chứng tỏ các tác phẩm này có sự gắn bó chặt chẽ với lịch sử. Đến đời Đường, sự hội tụ của nhiều yếu tố như kinh tế thịnh trị, tam giáo đồng nguyên, chế độ thi cử đề cao thi ca, sự phát triển của các loại hình nghệ thuật… đã có sự ảnh hưởng trực tiếp/ gián tiếp tới sự ra đời và phổ biến của thể loại truyền kì. Thời kì này, truyền kì có bước nhảy vọt về chất và thực sự chín muồi. Truyền kì viết về những nhân vật đời thường. Đặc biệt, truyền
kì bày tỏ nỗi bất bình của con người trước thời cuộc lúc bấy giờ. Không chỉ có nội dung phong phú, truyền kì còn có nghệ thuật khúc chiết, tình tiết đa dạng. Các tác giả đã đan xen khéo léo các yếu tố hư và thực. Truyền kì cũng thường chứa đựng những câu văn biền ngẫu, thơ ca thể hiện tài năng, sở thích của tác giả và sự trau chuốt dành cho tác phẩm. Sang đời Minh, tiểu thuyết truyền kì - với đặc trưng “truyền kì có nghĩa truyền đi một sự lạ” - được coi là một thể loại độc lập với kinh sử. Nhìn chung, ở Trung Hoa, truyền kì là một trong các thể loại tiêu biểu của văn ngôn. Trong Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, nhà nghiên cứu Trần Nghĩa xác định tiểu thuyết là thể loại bao gồm các loại cụ thể: tiểu thuyết bút kí, tiểu thuyết chí quái, tiểu thuyết truyền kì, tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết công án, tiểu thuyết diễm tình, du kí. Trong đó, truyền kì gắn liền với “tác ý hiếu kì”, được viết để thỏa mãn trí tò mò của con người:
Loại tiểu thuyết này ra đời và phát triển trên cơ sở chí quái nhưng khác với chí quái ở chỗ tác giả truyền kì sử dụng hư bút một cách hoàn toàn chủ động, có ý thức. Nếu công việc của chí quái là biên chép nhằm lưu lại cho đời một chuyện lạ có ý nghĩa răn khuyên thì công việc chủ yếu của truyền kì lại là sáng tác, mượn câu chuyện hiếm thấy để gửi gắm tâm sự của người cầm bút (Trần Nghĩa, 1997a, tr.11).
Trong công trình Nghiên cứu so sánh “Tiễn đăng tân thoại” và “Truyền kì mạn lục”, nhà nghiên cứu Trần Ích Nguyên phân chia tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam thành năm loại: truyền thuyết thần thoại, tiểu thuyết truyền kì, lịch sử diễn nghĩa, tiểu thuyết bút kí và tiểu thuyết hiện đại. Ông đã liệt kê các tác phẩm truyền kì được in trong Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san: Truyền kì mạn lục, Truyền kì tân phả, Thánh Tông di thảo, Việt Nam kì phùng sự lục. Ngoài ra, theo ông, Đại Nam kì truyện, Tân truyền kì lục, Hội chân biên cũng là tiểu thuyết truyền kì. Trong bài báo Từ truyền kì Trung Quốc đến truyền kì Việt Nam, nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc An cũng xác định các tác phẩm như Truyền kì mạn lục, Truyền kì tân phả, Tân truyền kì lục, Truyền kì tân lục… là tiểu thuyết truyền kì. Sách Kho tàng truyện truyền kì Việt Nam bao gồm 83 truyện truyền kì tiêu biểu. Các truyện trong sách này được Vũ Ngọc Khánh, Nguyễn Quang Ân chọn lọc từ Tang thương ngẫu lục, Truyền kì mạn lục, Công dư tiệp ký,
Kiến văn tiểu lục, Hát đông thư dị, Vũ trung tùy bút, Thánh Tông di thảo, Tân truyền kì lục, Lan Trì kiến văn lục, Sơn cư tạp thuật.
Một số nhà nghiên cứu gọi các tác phẩm thường được xem là truyền kì là truyện ngắn trung đại. Trong bài viết Truyền kì mạn lục dưới góc độ so sách văn học (sách Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam), nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Na cho rằng:
Truyền kì nếu đứng riêng, là một thể tài của truyện ngắn trung đại. Do các nhân vật, tình tiết, kết cấu… của truyện phần lớn là lạ kì đặc biệt, nên người ta gọi chúng là truyền kì. Nhưng đứng trong cụm từ “Truyền kì mạn lục” thì, “truyền kì” làm định ngữ, chỉ tính chất của thể “mạn lục” – một thể tự sự viết tự do, tùy hứng theo ý đồ sáng tác của tác giả, không bị câu thúc bởi bất kì một lí do nào cả (Nguyễn Đăng Na, 2006, tr.212).
Trong Văn học trung đại Việt Nam: thể loại, con người, ngôn ngữ, nhà nghiên cứu Đinh Thị Khang phân chia văn học trung đại thành văn học chức năng (chức năng hành chính, chức năng tôn giáo, chức năng nghi lễ tập tục) và văn học nghệ thuật. Trong đó, truyền kì là một thể loại quan trọng của văn học nghệ thuật. Nhà nghiên cứu này cũng gọi các tác phẩm của Truyền kì mạn lục là truyện ngắn truyền kì, truyện ngắn nghệ thuật, tác phẩm văn học kì ảo. Trong bài viết Thi pháp truyện ngắn trung đại Việt Nam (sách Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa), nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn cho rằng:
Khái niệm truyện ngắn trung đại là một khái niệm rất tương đối của khoa nghiên cứu văn học hiện đại áp dụng cho thực tế văn học thời trung đại. Thời trung đại chưa hề biết đến khái niệm này. Thay vì dùng một khái niệm có tính chất khái quát, người xưa có tên gọi riêng cho mỗi cuốn sách (chí, lục, phả, bút, tùy bút, kí, kí sự, thuyết…). Ngay trong một cuốn sách lại có những tác phẩm không hoàn toàn giống nhau về đặc trưng thể loại (Trần Nho Thìn, 2008, tr.143).
Ông đã dựa vào cốt truyện để phân loại truyện ngắn trung đại theo ba nhóm chính: nhóm tác phẩm lấy cốt truyện từ chính sử (Truyện Trâu Canh ở xã Tử Trầm trong Công dư tiệp kí…), nhóm tác phẩm vay mượn cốt truyện Trung Quốc (Mộc miên thụ truyện trong Truyền kì mạn lục…), nhóm tác phẩm có cốt truyện hư cấu thuần túy Việt Nam. Ngoài ra, ông đã tiến hành phân tích thi pháp truyện ngắn trung